Liên bang Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết |
Các
tên khác Союз Советских Социалистических Республик Soyuz
Sovetskikh Sotsialisticheskikh Respublik |
|
|
Khẩu hiệu |
Пролетарии всех стран,
соединяйтесь! (chuyển
tự: Proletarii vsekh stran, soyedinyaytes'!) Tiếng Việt: Vô
sản toàn thế giới, đoàn kết lại! |
Quốc ca |
"Quốc tế ca" (1922–1944) "Quốc ca Liên
bang Xô Viết" (1944–1991) |
Hành chính |
Chính phủ |
Liên bang Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa (1922-1990) Cộng hoà bán tổng thống
(1990-1991) |
• Tổng bí thư Đảng cộng sản Liên
Xô • Nguyên thủ
quốc gia • Người
đứng đầu chính phủ |
Joseph
Stalin (đầu tiên) Vladimir Ivashko
(cuối cùng)
Mikhail Kalinin (đầu tiên) Mikhail Gorbachev (cuối
cùng) Vladimir Lenin (đầu tiên) Ivan
Silayev (cuối cùng) |
Ngôn ngữ chính thức |
Không có, tiếng Nga
de facto |
Thủ đô |
Moskva
(Москва) 55°45′B,
37°37′Đ |
Thành phố lớn nhất |
Moskva |
Địa lý |
Diện tích |
22.402.200 km² |
Múi giờ |
UTC+2
đến +13 |
Lịch sử |
Độc lập
|
Tháng 2, 1917 |
Cách mạng tháng
Hai |
7 tháng 11,
1917 |
Cách mạng tháng
Mười |
30 tháng
12, 1922 |
Tuyên bố thành lập |
1 tháng 2, 1924 |
Quốc tế Công nhận |
26 tháng
12, 1991 |
Giải thể |
Dân cư |
Dân số ước lượng (1991) |
293.047.571 người |
Mật độ |
13,08 người/km² |
Kinh tế |
GDP
(PPP)
(1990) |
Tổng số: 2.660 tỷ USD (hạng 2 thế giới) |
Đơn vị
tiền tệ |
Rúp Xô viết (RUR ) |
Liên Xô, tên đầy đủ là
Liên bang các nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa
Xô viết (
tiếng Nga:
Союз Советских Социалистических Республик,
chuyển
tự. Soyuz Sovietskikh Sotsialisticheskikh Respublik
Phát âm tiếng Nga: [sɐˈjus sɐˈvʲetskʲɪx sətsɨəlʲɪˈstʲitɕɪskʲɪx
rʲɪsˈpublʲɪk], viết tắt:
СССР;
tiếng Anh:
Union of Soviet
Socialist Republics, viết tắt:
USSR) là một cựu
quốc gia có lãnh thổ chiếm
phần lớn
châu Âu và
châu Á, tồn tại từ
30 tháng 12 năm
1922 cho đến khi chính thức giải thể vào ngày
25 tháng
12 năm
1991.
Các tên gọi không chính thức:
Liên bang Xô viết (
tiếng Nga:
Советский
Союз,
chuyển
tự. Sovietsky Soyuz,
tiếng Anh:
Soviet
Union),
Liên Xô.
[1]
Sự thành lập quốc gia này gắn liền với quá trình sụp đổ của
Đế chế Nga
trong
Chiến
tranh thế giới thứ nhất: cuộc
Cách mạng tháng Hai lật
đổ chính quyền
Nga hoàng và
Cách mạng tháng
Mười năm
1917 lật đổ
Chính phủ Lâm
thời của
Aleksandr Fyodorovich Kerensky
sau đó. Liên Xô hình thành là chiến thắng của những người cộng sản Nga (
Bolshevik) đứng đầu là
Vladimir Ilyich
Lenin trong cuộc C
ách mạng Tháng
Mười và trong cuộc
nội chiến Nga (
1918 –
1922).
Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới xây dựng
Chủ nghĩa Cộng
sản. Là quốc gia rộng nhất thế giới và sự xuất hiện của nhà nước Liên Xô xã
hội chủ nghĩa đã ảnh hưởng rất lớn đến tiến trình lịch sử của thế giới. Trong
thế kỷ 20, sau khi
Liên Xô xuất hiện, mọi sự kiện lớn của thế giới – nhiều hay ít – đều có dấu ấn
và chịu ảnh hưởng của Liên Xô.
Liên Xô chiến thắng trong
Chiến
tranh thế giới thứ hai và mạnh lên thành một siêu cường của thế giới. Nửa
sau thế kỷ 20 là cuộc đấu tranh giữa hai phe
Tư bản chủ nghĩa (tự
gọi là
Thế giới tự do) do
Hoa Kỳ đứng đầu và phe
Xã
hội chủ nghĩa do Liên Xô đứng đầu mà cuộc
Chiến tranh Lạnh là đỉnh
cao.
Lãnh thổ Liên Xô thay đổi theo thời gian. Gần đây nhất nó giống lãnh thổ
Đế quốc
Nga, trừ các nước
Ba Lan và
Phần Lan, ngoài ra còn có
Alaska Đế quốc Nga đã
bán
cho
Mĩ trước đó vào năm
1867.
Thành phần và những thay đổi về lãnh thổ[sửa | sửa mã
nguồn]
Thành phần Liên bang Xô viết như sau:
Trong thời kỳ 1940 – 1954 tồn tại
Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Karelia-Phần Lan, về sau là
Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Tự trị Karelia trong
Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga.
Ở thời điểm 1990, Liên Xô có tổng cộng 15
nước
Cộng hòa trực thuộc.
-
Cách mạng và sự hình thành[sửa | sửa mã
nguồn]
Sự hình thành Liên Xô gắn liền với sự sụp đổ của
Đế quốc Nga trong
Chiến
tranh thế giới thứ nhất và hoạt động của
Đảng
Cộng sản Nga (
Bolshevik) do
Vladimir Ilyich Lenin đứng đầu.
Vào đầu
thế kỷ
20, Đế quốc Nga là một cường quốc ở
châu Âu có tiềm lực đất đai và dân số to lớn,
nhưng trình độ phát triển kinh tế – xã hội còn rất lạc hậu so với các cường quốc
châu Âu khác như Anh, Đức, Pháp... Xã hội ẩn chứa nhiều mâu thuẫn gay gắt không
được giải tỏa: xã hội Nga là xã hội chuyên chế độc tài của quý tộc và tư sản
lớn, tự do tư tưởng bị bóp nghẹt không làm hài lòng giới trí thức
(интеллигенция –
intelligentsia), trung lưu thành thị và giới tư sản quý
tộc nhỏ; nước Nga lại là nơi có phong trào Marxist cấp tiến mạnh nhất, do Lenin
đứng đầu với đảng
Bolshevik chủ
trương làm
cách
mạng xã hội chủ nghĩa để xây dựng
chủ nghĩa cộng
sản.
Những mâu thuẫn trên trong
Chiến
tranh thế giới thứ nhất không những không được cởi bỏ mà cùng với những thất
bại to lớn trong chiến tranh, xã hội Nga đi vào bất ổn.
Quốc
khố cạn kiệt, nợ nước ngoài cao,
lạm phát không kiểm soát được, dân chúng
cực khổ,
chiến tranh
làm
phá sản hàng loạt
doanh nghiệp gây
thất nghiệp đô thị trầm trọng,
nạn đói lan tràn tại
nông thôn, các
tầng
lớp nhân dân,
binh lính oán ghét
nhà
cầm quyền và chiến tranh, trong quân đội mâu thuẫn giữa binh lính và
tầng
lớp sĩ quan quý tộc phát triển thành chống đối. Tháng 2 năm
1917 đã nổ ra
Cách mạng tháng Hai:
khởi
nghĩa vũ trang tại
Petrograd đã lật đổ chính phủ
Nga hoàng và thành lập
Chính
phủ Lâm thời của
giai
cấp tư sản do
Aleksandr Fyodorovich
Kerensky – một đảng viên của Đảng Cách mạng Xã hội đứng đầu. Chính phủ Lâm
thời chủ trương phá bỏ
chế
độ độc tài chuyên chế,
tự do hóa xã hội Nga theo các
tiêu chuẩn như các
quốc gia
châu Âu đương
thời, nhưng vẫn chủ trương theo đuổi chiến tranh bên phía
Đồng
Minh Anh –
Pháp đến thắng lợi cuối cùng.
Chính phủ cũng tuyên bố đảm bảo quyền
lợi của
giai cấp công nhân, nông
dân và các tầng lớp xã hội khác.
Sau Cách mạng tháng Hai, dưới sự lãnh đạo của đảng Bolshevik đồng loạt xuất
hiện các tổ chức "hội đồng" (
tiếng Nga:
совет) hay
Xô viết của công nhân,
nông dân và binh lính để bảo vệ quyền lợi của chính họ. Thời gian giữa hai cuộc
cách mạng là khi
hai
chính quyền song song tồn tại: chính quyền trung ương là của Chính phủ Lâm
thời nhưng các sắc lệnh muốn được thi hành phải có sự chấp thuận của các Xô viết
của công – nông – binh. Đảng Bolshevik rầm rộ tung khuếch trương cho
cách
mạng vô sản với khẩu hiệu
"tất cả chính quyền về tay các Xô viết" và
kêu gọi binh lính phản chiến làm cách mạng
"Biến chiến tranh đế quốc thành
nội chiến cách mạng".
Chính phủ Lâm thời trong thời gian tám tháng tồn tại đã tiếp tục tiến hành
chiến tranh với Đức-Áo-Hung, song đã bất lực trong cả nỗ lực chiến tranh và ổn
định tình hình trong nước. Sau một loạt thất bại do quân Đức gây ra, quân đội
trở nên chán nản, binh lính tan rã không còn tuân lệnh cấp trên, bắt giết sĩ
quan và tự động đào ngũ. Các lực lượng
bảo hoàng tiến quân về
thủ đô để giải tán chính phủ (cuộc
hành quân của tướng
Kornilov
-
Корнилов). Chính phủ Lâm thời phải dựa vào tầng lớp công nhân, nông dân
để gọi lính, và cũng phần nào do đó mất uy tín vào phía Bolshevik. Nước Nga vào
đêm
trước của
Cách mạng tháng
Mười hỗn loạn, chính phủ không còn có thể kiểm soát được tình hình.
Ngày
25 tháng 10 năm
1917 (theo
lịch Julius, thời đó Nga còn dùng lịch
Julius), tức ngày
7 tháng
11 theo
lịch Gregory, Lenin và các đảng viên
Bolshevik lãnh đạo các Xô viết làm
Cách mạng tháng
Mười lập chính quyền Xô viết của công, nông, binh. Sau khi cách mạng thành
công, chính quyền lập tức ban hành
sắc
lệnh về hòa bình,
sắc
lệnh về ruộng đất và ra khỏi chiến tranh với các điều kiện rất ngặt nghèo
của phía
Đức (
Hòa ước
Brest-Litovsk).
Ngay sau Cách mạng tháng Mười, nước Nga rơi vào thời kỳ nội chiến cực kỳ đẫm
máu (
1918-
1922). Hồng quân Xô viết có thành phần chủ yếu là tầng lớp
dưới của xã hội, học vấn thấp nhưng có số lượng đông đảo như công nhân, nông
dân, cựu quân nhân và một bộ phận cựu sĩ quan của Đế quốc Nga cũ. Phía bên kia
là các thành phần thuộc lực lượng bảo hoàng, các đảng phái đối lập,
trung lưu thành thị, sĩ
quan, một bộ phận nông dân,
Cozak... gọi
chung là Bạch vệ. Lực lượng Bạch vệ nhận được sự giúp đỡ của các quốc gia tư bản
châu Âu để chống lại phe công - nông - binh nổi dậy. Đặc trưng của cuộc nội
chiến là tính ác liệt không
khoan
nhượng. Đến cuối năm
1920 về cơ bản Hồng
quân đã giành chiến thắng, quân bạch vệ bị thất bại và mất quyền lực hoàn toàn,
thay vào đó chính quyền cộng sản được thành lập trên toàn lãnh thổ còn lại của
Đế quốc Nga.
Ngày
30 tháng 12 năm
1922, đại biểu Xô viết đến từ những vùng
lãnh thổ còn lại của Đế chế Sa hoàng cũ (trừ Ba Lan, Phần Lan và
các nước
Baltic) đã nhóm họp và thống nhất quốc hiệu là
Liên bang Cộng hòa Xã hội
Chủ nghĩa Xô viết.
Nhà
máy thép Magnitogorsk thập niên 1930
Ngay sau nội chiến kết thúc, nền kinh tế Liên Xô đứng trước nguy cơ phá sản:
ở nông thôn, nạn đói hoành hành, cướp bóc thổ phỉ nổi lên khắp nơi, hàng đoàn
dân chết đói chạy vào thành phố ăn xin; còn ở thành phố, công nghiệp đình đốn,
thất nghiệp cực điểm, tiền không còn giá trị, nguyên liệu, tài chính cạn kiệt –
và tình hình xã hội lúc đó cực kỳ căng thẳng. Đứng trước tình hình đó, Lenin cho
tiến hành
chính sách kinh tế
mới, hay NEP (
Новая экономическая политика – НЭП), để thay thế cho
chính sách
cộng sản thời
chiến đã được áp dụng trong nội chiến. NEP là chính sách dùng cơ chế
kinh tế thị
trường để kích thích sản xuất, kêu gọi đầu tư tư bản dưới sự định hướng kiểm
soát của nhà nước. Đối với nông nghiệp, thay vì trưng thu mọi nông sản của nông
dân như trong thời chiến, NEP dùng cơ chế thuế để điều tiết, nông dân sau khi
làm nghĩa vụ thuế có thể mua bán nông sản trên thị trường tự do. Tại thành phố
chính sách mới khuyến khích đầu tư của tư bản trong nước và nước ngoài, nhà nước
chỉ kiểm soát những ngành quan trọng sống còn với quốc gia. NEP của Lenin đã
nhanh chóng cho kết quả rất tốt: nạn đói nhanh chóng bị đẩy lùi, công nghiệp,
thương mại được phục hồi, tình hình nông thôn và thành thị được ổn định, xã hội
có tích luỹ và đời sống người dân tốt lên nhanh chóng.
Ngay sau khi Lenin mất (
1924), trong ban
lãnh đạo đất nước này đã diễn ra cuộc đấu tranh nội bộ quyết liệt do những bất
đồng về đường lối xây dựng đất nước, chủ yếu là giữa hai nhóm của
Iosif Vissarionovich Stalin và
Lev
Davidovich Trotsky. Dần dần
Stalin thắng thế, nắm vị trí độc
tôn trong bộ máy lãnh đạo đảng và nhà nước. Để củng cố vị trí lãnh đạo cũng như
giữ vững kỷ cương xã hội, Stalin kiểm soát tất cả cơ cấu quyền lực vào tay mình,
dùng trấn áp trong nội bộ đảng, nhà nước và ngoài xã hội để loại bỏ mọi mầm mống
bất ổn ngay từ trước khi bộc lộ. Bộ máy
Bộ
dân ủy nội vụ (NKVD –
Народный коммисариат внутренних дел – НКВД)
được dùng như công cụ để phát hiện các đối tượng cần phải loại bỏ, từ những nhóm
đối lập với Stalin, gián điệp cho tới quan chức
tham nhũng, tội phạm hình sự... Sự theo dõi, tố
cáo được khuyến khích, đề cao trong nhân dân như một phẩm chất trung thành với
đảng và lãnh tụ.
Tem thư của
Liên Xô mô tả về hệ thống y tế tại nước này, khuyến khích phụ nữ tới trạm y tế
để sinh đẻ thay vì nhờ vào các bà đỡ không được đào tạo.
Về mặt kinh tế và xã hội, những năm 1920 – 1930 sau Lenin được đặc trưng bởi
việc chấm dứt chính sách kinh tế mới và thiết lập nền
kinh
tế nhà nước tập trung cao độ theo
kinh tế kế hoạch hóa
toàn diện. Đất nước đặc trưng bởi sự bao trùm của bộ máy đảng trong mọi chức
năng xã hội. Một quá trình to lớn có ảnh hưởng lâu dài của Liên Xô ở thời gian
này là việc tiến hành thành
công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa. Cho đến nay trong và ngoài nước Nga vẫn còn nhiều tranh luận về sự nghiệp
công nghiệp hóa này của Liên Xô trong các thập kỷ 1920, 1930. Kết quả thực tế là
Liên Xô đã trở thành một nước công nghiệp đứng thứ 2 trên thế giới trong một
thời gian rất ngắn, và điều này là nền tảng kinh tế cho chiến thắng của Liên Xô
trong
Chiến
tranh thế giới thứ hai. Mặt khác, công nghiệp hóa với tốc độ và quy mô rất
lớn đã đòi hỏi các nỗ lực cực cao của xã hội và đã gây ra các căng thẳng, mất
cân đối kinh tế. Thiên tai cùng với việc tập trung các nguồn lực cho công nghiệp
hóa tạo nên nạn đói làm chết cả triệu người, nhất là tại
Ukraina. Ban lãnh đạo Xô viết đã tiến hành
tập
thể hóa nông nghiệp ở nông thôn, với mục tiêu xóa bỏ sở hữu tư nhân ruộng
đất và biến nền nông nghiệp từ sản xuất gia đình nhỏ lẻ thành nền sản xuất tập
trung quy mô lớn (
nông
trường) để có thể áp dụng cơ giới hóa vào hoạt động sản xuất nông nghiệp và
giảm chi phí nhờ lợi thế quy mô. Tập thể hóa nông nghiệp đã vấp phải sự phản đối
dữ dội của tầng lớp địa chủ giàu có (được gọi là
Kulak). Để hỗ trợ cho tập thể hóa, Stalin đã cho tiến
hành chiến dịch cưỡng bức tầng lớp Kulak rất quyết liệt: toàn bộ tài sản của
Kulak bị tịch thu, gia đình họ bị đưa đến những vùng xa xôi hẻo lánh... Sau công
nghiệp hóa và tập thể hóa kinh tế, Liên Xô chỉ còn hai thành phần kinh tế nhà
nước và tập thể với đặc điểm quản lý tập trung hóa và kế hoạch hóa cao độ.
Đời sống tâm lý xã hội tại Liên Xô trong những năm 1920 – 1930 là kết hợp của
hai yếu tố:
- Một mặt, kỷ luật sắt tạo nên kỷ cương xã hội: không một ai (trừ Stalin) dù ở
cương vị hay tầng lớp nào cũng có khả năng bị NKVD điều tra, nỗi sợ bị pháp luật
xử lý là chính sách chính thống để duy trì kỷ luật xã hội và đạo đức cán bộ Nhà
nước. Người ta đã lập ra GULAG (Tổng
cục quản lý các trại tập trung lao động – Главное управление лагерей –
ГУЛАГ) trực thuộc bộ dân ủy nội vụ NKVD. Chức năng của GULAG không chỉ là để
giam giữ tù nhân mà còn có tác dụng tích cực là cách giải quyết vấn đề nhân lực
để khai phá những vùng đất hoang dã và thiếu thốn của đất nước.
- Mặt khác, những nhân tố giải phóng tích cực của cuộc sống mới xã hội chủ
nghĩa (thanh toán mù chữ và giáo dục miễn phí cho trẻ em, hệ thống y tế miễn
phí, thực hiện bình đẳng nam nữ, chia ruộng đất cho nông dân, quốc hữu hóa tài
nguyên và các nhà máy, mức sống ngày càng được nâng cao...) đã tạo động lực lớn,
gây nên những làn sóng phấn khởi trong cuộc sống xã hội, những phong trào lớn
được sự hưởng ứng của nhân dân, tâm lý chung của xã hội là chấp nhận hy sinh cho
tương lai tươi sáng của đất nước và Chủ nghĩa xã hội, với niềm tin tuyệt đối vào
lãnh tụ Stalin và Đảng
Cộng sản Liên Xô.
Giáo
dục ở Liên Xô được phổ cập và miễn phí ngay sau khi chế độ xã hội chủ nghĩa
được thành lập. Công dân trực tiếp tham gia lực lượng lao động có quyền hiến
định về việc làm và đào tạo nghề miễn phí. Ước tính năm 1917, có 75-85% dân số
Nga không biết chữ, và các nhà chức trách của Liên Xô rất chú trọng đến việc
loại bỏ nạn
mù chữ. Những người biết chữ đã được thuê
làm giáo viên. Trong một thời gian ngắn, số người được xóa mù chữ đã tăng nhanh.
Vào năm 1940, Liên Xô đã có thể tự hào thông báo rằng nạn mù chữ đã được loại
bỏ, điều mà nhiều cường quốc tư bản phương Tây đương thời như Mỹ, Pháp... cũng
chưa hoàn thành được
[2].
Về y tế, nguyên tắc
xã hội chủ nghĩa về
chăm sóc sức khỏe đã được hình thành ngay trong năm 1918. Chăm sóc sức khỏe được
kiểm soát bởi nhà nước và sẽ được cung cấp miễn phí cho mọi công dân, điều này
đồng thời là một khái niệm mang tính
cách mạng. Điều 42 của Hiến pháp năm
1977 quy định: tất cả công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe và truy cập miễn
phí đến bất kỳ cơ sở y tế nào ở Liên Xô. Sau cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa,
tuổi thọ cho tất cả các nhóm tuổi đã tăng lên. Trong giai đoạn 1922-1950, nhờ
việc thiết lập hệ thống y tế rộng khắp, tỷ lệ tử vong trẻ em đã giảm nhanh
chóng, từ 286,6/1000 trẻ (năm 1913) xuống còn 81/1000 trẻ (năm 1950). Tiêu thụ
rượu giảm 2
lần. Tỷ lệ dân số tử vong hàng năm giảm từ 2,91% (năm 1913) xuống còn 1% (năm
1950)
[3].
Việc được tiếp cận chăm sóc sức khoẻ và giáo dục miễn phí đã giúp dập tắt các
dịch bệnh như
sốt rét,
dịch tả... và tuổi
thọ trung bình của công dân Liên Xô đã tăng lên hàng thập kỷ. Phụ nữ Liên Xô lần
đầu tiên được sinh đẻ trong những bệnh viện an toàn, với khả năng tiếp cận
chăm
sóc trước khi sinh. Chăm sóc y tế rộng rãi và miễn phí được nhìn nhận là sự
ưu việt của
hệ
thống xã hội chủ nghĩa so với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Những tiến bộ tiếp
tục được thực hiện và vào năm 1960, tuổi thọ trung bình ở Liên Xô đã vượt qua cả
Hoa Kỳ
[4].
Liên Xô còn thi hành chính sách cấm phân biệt chủng tộc, bảo đảm sự bình đẳng
giữa các dân tộc trên lãnh thổ Liên bang Xô Viết và thực hiện nam nữ bình quyền.
Chính phủ Liên Xô chi ra những khoản đầu tư lớn để phát triển kinh tế xã hội tại
các vùng kém phát triển như Trung Á, Siberia ... nhằm thúc đẩy sự tiến bộ của
các dân tộc chậm tiến tại các vùng này. Liên Xô cho phép phụ nữ có quyền bầu cử
trước cả các nước phương Tây đồng thời khuyến khích, tạo điều kiện để phụ nữ
được giáo dục ở bậc cao và tham gia vào các hoạt động chính trị - xã hội.
Với sự hỗ trợ của chuyên gia nước ngoài và sau đó là tự lực trong nước, Liên
Xô đã xây dựng được một loạt các tổ hợp công nghiệp khổng lồ ở dọc
sông
Dniepr, các nhà máy luyện kim như
Magnitogorsk,
Lipetsk và
Chelyabinsk,
Novokuznetsk,
Norilsk và
Uralmash,
nhà máy máy kéo ở
Volgograd,
Chelyabinsk,
Kharkov,
Uralvagonzavod... và nhiều nơi khác. Năm 1935,
Liên Xô đã khởi công giai đoạn đầu tiên của
Tuyến
tàu điện ngầm Moscow với tổng chiều dài 11,2 km, một công trình hiện đại
thời bấy giờ và vẫn được sử dụng cho tới ngày nay
[5]. Tới năm 1940, sản lượng
công nghiệp của Liên Xô đã tăng gấp 7,7 lần so với năm 1913, bình quân hàng năm
tăng 14%. Công nghiệp Liên Xô đã chiếm 77,4% cơ cấu nền kinh tế và chiếm 10%
toàn thế giới. Cho đến lúc đó, thế giới chưa từng chứng kiến nhịp độ tăng trưởng
nào nhanh như vậy
[6]
Sự tăng trưởng của tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô trong thời
gian 1928-1937.[7]
Sản lượng |
1928 |
1932 |
1937 |
Tăng trưởng 1932 so với 1928 (%) Kế hoạch 5 năm lần 1 |
Tăng trưởng 1937 so với 1928 (%) Kế hoạch 5 năm lần
2 |
Sắt, triệu tấn |
3,3 |
6,2 |
14,5 |
188 % |
439 % |
Thép, triệu tấn |
4,3 |
5,9 |
17,7 |
137 % |
412 % |
Kim loại đen, triệu tấn |
3,4 |
4,4 |
13 |
129 % |
382 % |
Than, triệu tấn |
35,5 |
64,4 |
128 |
181 % |
361 % |
Dầu, triệu tấn |
11,6 |
21,4 |
28,5 |
184 % |
246 % |
Điện, tỷ KW/h |
5,0 |
13,5 |
36,2 |
270 % |
724 % |
Giấy, ngàn tấn |
284 |
471 |
832 |
166 % |
293 % |
Xi măng, triệu tấn |
1,8 |
3,5 |
5,5 |
194 % |
306 % |
Đường, tấn |
1283 |
1828 |
2421 |
165 % |
189 % |
Máy công cụ, nghìn chiếc |
2,0 |
19,7 |
48,5 |
985 % |
2425 % |
Xe hơi, nghìn chiếc |
0,8 |
23,9 |
200 |
2988 % |
25000 % |
Giày dép, cặp xách |
58,0 |
86,9 |
183 |
150 % |
316 % |
Tới trước
Chiến
tranh thế giới thứ hai, từ xuất phát điểm là
Đế quốc Nga (năm 1917) với nền
sản xuất lạc hậu với tổng sản lượng công nghiệp chỉ đứng thứ 6 thế giới, Liên Xô
đã vươn lên trở thành cường quốc công nghiệp thứ 2 thế giới và đứng đầu
châu Âu, vượt qua
Anh-
Pháp-
Đức và chỉ đứng sau Mỹ. Sản lượng công nghiệp
năm 1937 đã tăng gấp 4,5 lần so với năm 1927 (so với năm 1917 thì tăng gần gấp
10 lần) và chiếm 77,4% tổng sản phẩm kinh tế quốc dân. Sản lượng nông nghiệp
tăng 3 lần so với 1927, thu nhập bình quân đầu người tăng 3 lần so với 1927. Nạn
mù chữ vốn chiếm gần 90% dân số Nga năm 1917, sau 20 năm đã cơ bản được thanh
toán. Sản xuất quốc phòng tăng 2,8 lần chỉ sau 5 năm, vũ khí trang bị và trình
độ cơ giới hóa cho quân đội Liên Xô đã đạt tương đương với các cường quốc
khác
[8].
Trong lịch sử, nước Anh cần 200 năm để trở thành một nước công nghiệp, nước
Mỹ cần 120 năm, Nhật Bản cần 40 năm. Trong khi đó, Liên Xô chỉ cần 18 năm để
hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hóa của mình. Đây là tốc độ công
nghiệp hóa nhanh nhất mà thế giới từng ghi nhận.
Giáo sư Kolesov tin rằng nếu không có các chính sách công nghiệp hóa của
Stalin thì Liên Xô không thể duy trì nền độc lập chính trị và kinh tế của đất
nước. Giá trị của công nghiệp hóa đã được xác định trước bởi tình trạng lạc hậu
về kinh tế và một thời hạn quá ngắn để loại bỏ nó. Liên Xô đã loại bỏ tình trạng
lạc hậu của đất nước chỉ trong thời gian rất ngắn là 13 năm (ngay trước khi
Đức Quốc
xã tấn công Liên Xô), thành quả rất lớn này đã cho phép Liên Xô chiến đấu,
và cuối cùng giành chiến thắng trong
Chiến
tranh thế giới thứ hai.
[9]
Chiến tranh thế giới thứ hai[sửa | sửa mã
nguồn]
Năm
1939, nguy cơ chiến tranh thế giới đã
hiển hiện rất rõ ràng tại châu Âu. Liên Xô trước đó vài năm đã theo đuổi
chính
sách an ninh tập thể, Liên Xô kêu gọi một sự hợp tác với các nước
Anh,
Pháp để cùng kiềm chế
nước Đức
phát xít của
Adolf
Hitler đang quân phiệt hóa rất mạnh, nhưng Anh-Pháp đã không hồi đáp đề nghị
này.
Tem thư
Liên Xô năm 1940 kỷ niệm Chiến dịch Giải phóng Tây Ukraine và Tây Belorussia
khỏi sự chiếm đóng của Ba Lan, ngày 17/9/1939
Năm 1939, sau khi Anh-Pháp ký với Đức
Hiệp ước München và
làm ngơ cho việc Đức chiếm toàn bộ
Tiệp Khắc, ban lãnh đạo của Liên bang
Xô viết tin rằng Anh-Pháp muốn hướng cỗ máy chiến tranh Đức nhắm vào họ. Phản
ứng lại, Liên Xô thay đổi đột ngột chính sách đối ngoại của mình: quay sang hòa
hoãn với Hitler. Liên Xô và Đức đã ký hiệp định không xâm phạm lẫn nhau (
Hiệp ước
Molotov-Ribbentrop) và đi xa hơn nữa hai bên ký biên bản thỏa thuận bí mật
(
секретный протокол) phân chia ảnh hưởng ở các nước khác. Khi Đức tấn
công Ba Lan, phần lãnh thổ
Tây Ukraina,
Tây
Belarusia vốn bị quân Ba Lan chiếm năm 1919 sẽ được quay trở về Liên Xô.
Liên Xô có quyền đòi lại những lãnh thổ từng thuộc nước Nga cũ: 3 quốc gia vùng
biển Baltic (
Estonia,
Latvia,
Litva),
phần đất
Karelia (bị
Phần Lan chiếm năm 1921)
và
Bessarabia (
Moldova ngày nay) bị
România chiếm năm 1920. Đổi lại Liên Xô sẽ trung
lập trong chiến tranh giữa Đức và khối Anh – Pháp.
Theo đúng tinh thần của biên bản bí mật, sau khi Đức tấn công Ba Lan gây
chiến tranh thế giới (
1 tháng
9 năm
1939), Quân đội Xô viết kéo vào Ba
Lan, thu hồi lại Tây Belarusia, Tây Ukraina, thu hồi lại vùng
Bessarabia lập nên nước
Cộng
hòa Xã hội Chủ nghĩa Moldavia (ngày nay là Moldova). Năm
1940, Liên Xô sáp nhập ba quốc gia vùng biển Baltic:
Estonia, Latvia, Litva và lập nên ba nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa vùng Baltic
(ban đầu không được Quốc tế công nhận) và gây chiến tranh chống
Phần Lan để thu hồi dải đất
Karelia (bị Phần Lan chiếm năm 1921) để lập nên nước
Cộng
hòa Xã hội chủ nghĩa Xô viết tự trị Karelia. Trong
Chiến tranh
Liên Xô-Phần Lan (1940) quân đội Xô viết đã bộc lộ những yếu kém, lạc hậu
của mình và đó cũng là một nguyên nhân để Hitler tấn công Liên Xô năm 1941.
Ngày
22 tháng 6 năm
1941 nước
Đức Quốc xã tấn công Liên
bang Xô viết và bắt đầu "
Chiến tranh vệ quốc vĩ
đại" của Liên Xô (
1941 –
1945). Liên Xô tham gia vào khối
Liên
minh chống phát xít gồm
Anh,
nước
Pháp tự do và sau này là
Mỹ,
Úc,
New Zealand,
Canada,
Trung Quốc... Quân đội Liên Xô trong giai
đoạn đầu 1941 – 1942 đã chịu nhiều thất bại lớn, bị đẩy lùi với tổn thất rất lớn
vì những nguyên nhân sau:
- Quân đội Xô viết dù đã nỗ lực hoàn thiện nhưng năm 1941 vẫn còn kém khá xa
Wehrmacht (quân đội Đức Quốc xã)
về mọi mặt: quân số, trang bị vũ khí (quân đội Đức được tái vũ trang từ trước,
rất hiện đại, nhất là sau khi chiếm được nước Pháp với các nguồn công nghiệp
chiến tranh khổng lồ của nước này), trình độ tác chiến, tinh thần chiến đấu và
nhất là quân đội Đức đã đi trước các nước khác khá xa về tư duy quân sự trong nghệ
thuật chiến tranh: Đức đã phát kiến ra các chiến thuật chiến
tranh cơ động, đây là cuộc cách mạng trong nghệ thuật quân sự với sự sử dụng
tập trung các mũi nhọn xe tăng thiết giáp, không quân và bộ binh cơ giới...
Trong khi đó quân đội Xô viết cũng như các quân đội châu Âu khác vẫn còn nặng về
tư duy chiến
tranh trận địa của Chiến
tranh thế giới thứ nhất (thảm bại của liên quân Anh – Pháp năm 1940 tại chiến trường châu Âu cũng cho thấy rất rõ điều
này).
- Nền kinh tế của Đức đã được chuẩn bị sẵn sàng cho chiến tranh và nước Đức có
tiềm lực công nghiệp khổng lồ với nguồn nhân công lao động chất lượng cao của
các nước châu Âu bị chiếm đóng, cộng với lao động nô lệ của người Do
Thái.
- Dự đoán của Stalin đã sai: ông tin rằng chiến tranh với Đức sẽ nổ ra nhưng
không sớm hơn 1942, do vậy ông không cho phép quân đội cũng như toàn quốc áp
dụng các biện pháp quốc phòng ở mức độ cao vì sợ là sẽ khiêu khích Đức tấn công
sớm hơn.
- Các cuộc thanh lọc trong tầng lớp sĩ quan của Hồng quân Liên Xô từ năm 1937 – 1938
khiến nhiều tướng lĩnh có kiến thức và kinh nghiệm quân sự đều đã bị cách chức
hoặc bắt giam. Các tổn thất về cán bộ quân sự khiến Hồng quân bị thiếu sĩ quan
có kinh nghiệm chiến đấu.
Bích
cương cổ vũ lao động của Liên Xô năm 1941:
"Tất cả cho tiền tuyến, tất cả cho
chiến thắng".
Trong hai năm 1941 – 1942, quân Đức đã chiếm đóng một phần lớn lãnh thổ phía
tây của phần châu Âu của Liên Xô, nơi có 40% dân số và một phần đáng kể tiềm lực
kinh tế của đất nước. Cuộc chiến tranh này đối với Liên Xô là có tính chất sống
còn: không những sự tồn tại của quốc gia bị đe doạ mà dân tộc đứng trước nguy cơ
diệt chủng (đối với Đức, chiến tranh chống Liên Xô không phải là để kết thúc
bằng một hiệp ước có lợi như mọi cuộc chiến tranh khác trước đây, mà là để tiêu
diệt số lớn giống
người Slav "hạ đẳng", đuổi số còn lại
sang vùng
Siberia hoang dã để chiếm đất
cho "
không gian sinh tồn" của
giống người Đức
Aryan
"thượng đẳng" (
xem kế hoạch Barbarossa và chủ nghĩa phát
xít).
Chính phủ Liên Xô đã có những nỗ lực vô cùng to lớn để di chuyển toàn bộ các
nhà máy và nguồn lực kinh tế sang các vùng sâu sau
dãy Ural và
Siberia và thiết lập dây chuyền sản xuất
tại chỗ mới, thậm chí ngay trên đất trống ngoài trời. Khoảng 8 triệu thường dân
cũng được sơ tán khẩn cấp về phía Đông, xa khỏi đòn tấn công của Đức. Tại nơi ở
mới, người dân bắt tay ngay vào sản xuất với những dây chuyền sản xuất được di
tản cùng họ.
Chỉ sau một năm, sản xuất đã đạt mức trước chiến tranh và sau đó tiếp tục
tăng lên với tốc độ rất cao, người Xô viết đã lao động tự giác, quên mình vì
chiến thắng với các nỗ lực rất phi thường. Phần lớn các dân tộc các nước Cộng
hòa của Liên bang Xô viết đã đoàn kết hiệp lực tin tưởng vào sự lãnh đạo của
đảng cộng sản Liên Xô và lãnh tụ Stalin để đẩy lùi mối họa phát xít.
Quân đội Xô Viết tuy thất bại nặng nề, bị tiêu diệt và bị bắt làm tù binh
hàng triệu người nhưng đã chống trả rất kiên cường theo khẩu hiệu "tử thủ"
(
стоять насмерть) và gây cho quân Đức những tổn thất lớn, khiến đà tiến
của Đức chậm dần. Đến cuối năm 1941, họ đã chặn đứng được quân đội Đức quốc xã
tại cửa ngõ thủ đô
Moskva.
Trong các năm 1942 – 1943, các nỗ lực chiến tranh và kinh tế to lớn của Liên
bang Xô viết cộng với sự giúp đỡ của đồng minh Anh – Mỹ trong Liên minh chống
Phát xít đã tạo được bước ngoặt cơ bản của chiến tranh bằng các chiến thắng
Stalingrad và
Kursk. Đến cuối năm
1944, Liên Xô đã giải phóng được toàn bộ đất
đai của mình và đánh đuổi quân Đức trên lãnh thổ các nước Đông Âu và Trung Âu và
đưa chiến tranh vào chính nước Đức. Tháng 4 năm 1945, quân đội Xô viết công phá
Berlin. Nước Đức Quốc xã sụp đổ và đầu
hàng.
Ngay sau chiến thắng đối với nước Đức, Liên Xô tham chiến chống
Nhật Bản và vào đầu
tháng 8 năm 1945, đã dễ dàng đánh tan
đạo quân Quan
Đông của Nhật tại
Mãn
Châu. Ngày
15 tháng 8
năm
1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng
Đồng
Minh vô điều kiện và Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt.
Khi quân Đức tấn công, đã có những dân tộc bất mãn với chính quyền Xô Viết
như người
Chechen và người Thổ tại
Kavkaz, người
Tartar ở
Krym, người Kozak tại Ukraina và các dân tộc
chống Xô Viết khác đã cộng tác với Đức quốc xã và được tham gia các lực lượng
như
Waffen-SS Đức, lực lượng Don
Cossack (Kozak sông Đông)...
[10][11][12] Vì lý do này, nhiều dân
tộc thiểu số do cộng tác với Đức Quốc xã đã bị trục xuất khỏi quê hương và bị
tái định cư cưỡng bức. Trong giai đoạn từ 1941 đến 1948, Liên Xô trục xuất
3.266.340 người dân tộc thiểu số đến các khu định cư đặc biệt bên trong Liên Xô,
hai phần ba trong số đó là thành viên của các dân tộc bị trục xuất hoàn toàn dựa
trên sắc tộc của họ, hơn một phần mười trong số đó qua đời trong thời gian
này.
[13]
Theo số liệu của Bộ Nội vụ Liên Xô, vào tháng 1 năm 1953, số người "định cư đặc
biệt" từ 17 tuổi trở lên là 1.810.140 người, trong đó có 56.589 người Nga.
[14]. Theo
Krivosheev, có khoảng 215.000 người Liên Xô đã tử trận khi phục vụ trong hàng
ngũ quân đội Đức Quốc xã (quân Đức gọi những người Liên Xô phục vụ cho họ là
Hiwi)
[15]
Người lính
Hồng quân
Meliton
Kantaria cắm lá cờ đỏ búa liềm Xô Viết trên tòa nhà
Quốc
hội Đức, đánh dấu chiến thắng của Liên Xô trong thế chiến thứ
hai
Chiến tranh thế giới thứ hai đã làm hơn 20 tới 26 triệu người Xô viết thiệt
mạng, 1.710 thành phố, thị trấn và hơn 70.000 làng mạc bị phá huỷ, 32.000 cơ sở
công nghiệp, 98.000 nông trang tập thể, nhiều công trình văn hóa của Liên bang
Xô viết bị phá huỷ, hơn 25 triệu người mất nhà cửa. Tổng cộng, Liên Xô mất gần
30% tài sản quốc gia và gần 1/8 dân số. Các trận đánh như
Trận Moscow,
Trận Stalingrad,
Trận Kursk,
Chiến dịch Bagration là
những chiến dịch có quy mô, sức tàn phá và số thương vong ghê gớm nhất trong
Chiến tranh thế giới thứ hai. Dù vậy, mỗi người dân Liên Xô đã có những nỗ lực
lao động phi thường để bù đắp tổn thất và góp phần làm nên chiến thắng chung
cuộc. Chỉ trong 1 năm rưỡi (từ tháng 6/1941 đến hết 1942), Liên Xô đã sơ tán hơn
2.000 xí nghiệp và 25 triệu dân và sâu trong hậu phương. Các nhà máy tăng nhanh
tốc độ sản xuất, năm 1942, sản lượng vũ khí đã tăng gấp 5 lần so với 1940 và đã
bắt kịp Đức, tới năm 1944 thì đã cao gấp đôi Đức.
Giai đoạn 1941-1945, trung bình mỗi năm Liên Xô sản xuất được 27.000 máy bay
chiến đấu, 23.774 xe tăng và pháo tự hành, 24.442 khẩu pháo (từ 76mm trở lên);
con số này ở phía Đức là 19.700 máy bay chiến đấu, 13.400
xe tăng và
pháo tự hành, 11.200 khẩu pháo.
Nhờ sản lượng vũ khí khổng lồ, sau chiến tranh, Liên Xô đã có trong tay một lực
lượng
lục quân mạnh
nhất thế giới với 13 triệu người, trang bị 40.000 xe tăng và pháo tự hành và hơn
100.000 khẩu pháo các loại.
Trên vùng đất mới chiếm đóng trong quá trình chiến tranh xuất hiện các nước
cộng hòa xã hội chủ nghĩa mới thuộc Liên Xô: Moldavia, Estonia, Latvia, Litva,
Karelia.
Mặc dù có những khó khăn to lớn do hậu quả của chiến tranh, Liên Xô bước ra
khỏi chiến tranh với tư thế người chiến thắng góp phần quan trọng nhất vào việc
đánh thắng
chủ nghĩa phát xít
với uy tín quốc tế cực kỳ cao và niềm phấn khởi tự hào lớn lao của nhân dân đối
với cường quốc xã hội chủ nghĩa của mình tạo tiền đề để Liên Xô mạnh lên thành
siêu cường
thế giới sau thế chiến.
Liên Xô phục hồi (1945 – 1955), Chiến tranh Lạnh[sửa | sửa mã
nguồn]
Sau khi Chiến tranh thế giới thứ hai chấm dứt, ngay lập tức các mâu thuẫn tư
tưởng, chính trị giữa
chủ nghĩa tư bản và
chủ nghĩa cộng
sản đã phân các đồng minh cũ ra hai chiến tuyến của
Chiến
tranh Lạnh: Hoa Kỳ đứng đầu phe tư bản chủ nghĩa muốn hạn chế và triệt tiêu
sự phát triển của chủ nghĩa cộng sản, còn Liên bang Xô viết lãnh đạo phe
xã hội chủ nghĩa vì
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa cộng sản và truyền bá chủ nghĩa này ra khắp thế
giới.
Sau chiến tranh thế giới II, Liên Xô bị tàn phá nặng nề. Tổn thất vật chất
ước tính là 2,5 nghìn tỷ rúp, tương đương với 30% toàn bộ nguồn của cải của đất
nước. Sự phát triển các ngành kinh tế quan trọng bị thụt lùi tới 10-15 năm.
Khoảng 20 tới 27 triệu người Liên Xô đã chết trong chiến tranh. Trước những tổn
thất nặng nề đó, Liên Xô đề ra một kế hoạch 5 năm nhằm khôi phục nền kinh tế và
đã hoàn thành mục tiêu này trong 4 năm 3 tháng. Đến năm 1950, Liên Xô đã đạt
tổng sản phẩm quốc dân là 126 tỷ đôla (thời giá 1950), đứng thứ hai thế giới chỉ
sau Mỹ (381 tỷ đôla).
Tại
châu Âu sau chiến
tranh, các nước Đông Âu (
Ba Lan,
Hungary,
Cộng
hòa Dân chủ Đức,
Bulgaria,
Tiệp Khắc,
România,
Albania,
Nam
Tư) mặc nhiên được Hoa Kỳ và
phương Tây coi là khu vực ảnh hưởng
của Liên Xô. Tại đây Liên Xô giúp đỡ tài chính và quân sự cho các nước này phục
hồi nền kinh tế, thành lập các nhà nước xã hội chủ nghĩa dưới sự kiểm soát của
mình. Phần lớn các nước này vào năm
1955 đã
tham gia
Khối
Warszawa với Liên bang Xô viết làm trụ cột để đối đầu với khối quân sự Hiệp
ước Bắc Đại Tây Dương (
NATO) của
phương Tây do Hoa Kỳ lãnh đạo. Sau
này các quốc gia này tham gia
Hội
đồng tương trợ kinh tế COMECON.
Liên Xô thông qua lực lượng quân sự hùng hậu của mình đóng trên lãnh thổ đông Âu
và bằng thỏa thuận kinh tế trong COMECON để uốn nắn đường lối chính trị của các
đồng minh đông Âu và sau này từng can thiệp trực tiếp để ngăn chặn các cuộc bạo
động tại các nước này như tại Hungary (
1956), Tiệp Khắc (
1968) và Ba Lan (
1982).
Ở
châu Á sau chiến tranh,
Liên Xô giúp những người Cộng sản thành lập nước
Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên của
Kim Nhật Thành tại vùng do Liên Xô
chiếm đóng trên
bán đảo Triều
Tiên. Đặc biệt ngay sau chiến tranh không lâu (
1949), với sự giúp đỡ to lớn về viện trợ của Liên Xô,
Đảng
Cộng sản Trung Quốc của
Mao Trạch Đông đã chiến thắng
trong
Nội chiến Trung
Quốc và thiết lập nhà nước xã hội chủ nghĩa tại quốc gia đông dân nhất thế
giới, làm cho thế và lực của phong trào cộng sản trên toàn thế giới tăng lên rất
mạnh. Cùng với
Chiến tranh Triều
Tiên do Bắc Triều Tiên khởi xướng với sự ủng hộ tích cực của Liên Xô và
Trung Quốc, tình hình thế giới trở nên rất căng thẳng: hai phe đã đụng độ quân
sự trực tiếp, nguy cơ sử dụng
vũ khí hạt nhân là rất
nghiêm trọng.
Sau chiến tranh, lãnh thổ Liên Xô được mở rộng từ các quốc gia thất trận:
Nam Sakhalin (
Южный Сахалин) và
quần
đảo Kuril (
Курильские острова) từ
Nhật Bản, vùng Petsamo (
Петсамо –
Печенга) từ
Phần Lan,
Klaipeda (
Kлайпеда), Koenisberg (
Кёнигсберг, tên Nga là
Kaliningrad –
Калининград) từ
Đông Phổ của Đức, Ukraina Ngoại
Karpat (
Закарпатская Украина) từ
România. Chính quyền Xô viết tiến hành trấn áp rất
mạnh các cuộc bạo loạn vũ trang ly khai tại Tây Ukraina, Tây Belarus, các nước
cộng hòa Baltic và trấn áp các thành phần bất mãn đặc biệt là như các quan chức
chính quyền, quân đội, cảnh sát cũ, các lực lượng tư sản, địa chủ và dân tộc chủ
nghĩa, thành phần trí thức thành thị của chính quyền cũ.
Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, tuy không còn quy mô và ở mức độ cực đoan
như những năm 1930 nhưng theo dõi, bắt giữ vẫn là một thành tố của chính sách
nhất quán giữ yên kỷ cương xã hội Liên Xô. Sau chiến tranh và đến trước khi chết
(
1953),
Stalin còn kịp chỉ đạo NKVD tiến hành vài đợt thanh lọc
lớn như vụ Leningrad (bắt giam thành viên tỉnh uỷ Leningrad), vụ các bác sĩ giết
người (bắt giam một số giáo sư bác sĩ nổi tiếng của Liên Xô chủ yếu là người Do
Thái, vụ này mang sắc thái
bài Do Thái rất
rõ), vụ chống
chủ nghĩa thế
giới (
cosmopolitism)... Chỉ sau khi Stalin chết, lãnh đạo mới
Khrushchov phát động chống sùng
bái cá nhân Stalin và xử bắn
Beria (
Лаврентий Павлович
Берия) (giám đốc NKVD) thì Liên Xô mới đoạn tuyệt hẳn với chính sách kỷ luật
sắt của
chủ
nghĩa Stalin.
Nhìn chung, Thời kỳ 1945 – 1955 là thời kỳ niềm phấn khởi tự hào của dân
chúng Liên Xô dâng cao, nền kinh tế hồi phục và phát triển khá nhanh làm cơ sở
để
chạy
đua vũ trang. Liên Xô lúc này (và cả sau này) chủ yếu
phát
triển kinh tế theo chiều rộng: gia tăng sản xuất bằng việc xây dựng thêm các
công trường, nhà máy mới, khai phá thêm các nguồn tài nguyên thiên nhiên, huy
động thêm nguồn nhân lực... nhưng chưa đi vào
phát
triển theo chiều sâu (bằng cách tăng năng suất lao động và hiệu quả kinh
tế). Cả đất nước như một công trường lớn với các dự án rất ấn tượng như chinh
phục Angara, chinh phục
Bắc Băng Dương, chinh
phục
Taiga và miền
Siberia...
Về khoa học - kỹ thuật và quân sự, vào ngày 10/10/1948, Liên Xô đã bắn quả
tên lửa đạn
đạo đầu tiên (P-1). Tiếp đến ngày 29/8/1949,
bom nguyên tử
được Liên Xô thử thành công, phá vỡ thế độc quyền vũ khí hạt nhân của Mỹ. Năm
1954, Liên Xô là quốc gia đầu tiên trên thế
giới xây dựng được
nhà máy
điện nguyên tử. Đồng thời đất nước này còn chế tạo được tuốc-bin hơi nước có
công suất 100 triệu oát, lớn nhất thế giới lúc bấy giờ. Công nghệ vũ trụ được
nghiên cứu, tạo tiền đề cho việc phóng tàu vũ trụ đầu tiên trên thế giới vào năm
1959. Những sự việc này ngoài những ý nghĩa quân sự, chiến lược, kinh tế còn có
ý nghĩa tinh thần tượng trưng rất lớn: nó đánh dấu Liên Xô đã trở thành
siêu cường thế
giới với mục tiêu vươn lên vượt qua Hoa Kỳ.
Siêu cường thế giới (1955 – 1975)[sửa | sửa mã
nguồn]
"Chủ nghĩa
cộng sản mở đường tới các vì sao". Tranh cổ động năm
1961 của
Tiệp Khắc về phi công Anh hùng Liên
Xô Yuri Gagarin - người đầu tiên bay vào vũ trụ trong lịch sử nhân
loại
Thời kỳ sau
Stalin, nhất là từ đại hội 20
Đảng
Cộng sản Liên Xô (
1956) đến năm
1965 khi
Bí
thư thứ nhất Đảng Cộng sản Khrushchyov đã bị bãi chức được gọi là thời kỳ
"tan băng". Trong thời kỳ này tổng bí thư
Nikita Sergeyevich Khrushchyov
phát động phong trào chống
sùng bái cá nhân Stalin:
công khai lên án những sai lầm của Stalin, phục hồi danh dự cho những người bị
oan, giải tán các
trại
tập trung lao động của GULAG và cho phép các dân tộc bị định cư cưỡng bức
trở về quê hương xứ sở, truy cứu
trách
nhiệm hình sự các lãnh đạo NKVD và các cơ cấu quyền lực đã gây ra tình trạng
trấn áp bừa bãi, khôi phục
pháp
chế nhà nước. Việc này có tiếng vang lớn và gây ra hệ quả hai mặt:
- Một mặt phong trào này rất được lòng giới trí thức và những thành phần muốn
nới lỏng kiểm soát xã hội và được họ gọi là thời kỳ "tan băng", nó gây nên một
trào lưu tự do tư tưởng, văn hóa văn nghệ tự do và các xu hướng mới trong giới
trí thức, văn hóa, khoa học. Hầu hết các tác phẩm văn hóa nổi tiếng, các trường
phái mới gây tiếng vang của Liên Xô là kết quả của thời kỳ tan băng này. Các
tầng lớp nhân dân cũng phấn khởi vì đời sống được nâng cao, các quyền tự do dân
chủ được mở rộng, dân chúng không còn sống trong tâm lý sợ bị trừng phạt như
thời Stalin.
- Mặt khác phong trào này cũng gây ra các hệ lụy tiêu cực cho Liên Xô. Nó
khiến Mao Trạch Đông cảm thấy bị
động chạm và gây ra chia rẽ với Trung Quốc, là nguồn gốc của sự phân ly
trong phong trào Cộng sản thế giới: từ nay phe xã hội chủ nghĩa phân thành hai
phía coi nhau như đối thủ. Nó đồng thời động chạm đến một bộ phận lớn các cán bộ
ủng hộ chính sách thời Stalin và tạo ra bất mãn với nhà lãnh đạo mới, những
người này bỏ phiếu phản đối Nikita Khrushchyov và sau này đã buộc ông từ
chức.
Liên Xô vào thời kỳ Khrushchyov đã có sự tiếp cận mới về đối ngoại tìm cách
hòa hoãn với Hoa Kỳ, thi hành chính sách cùng tồn tại hòa bình,
ngoại
giao nhân dân được phát triển, xóa bỏ tâm lý coi đế quốc như quỷ dữ, tránh
gây căng thẳng có thể làm phương hại đến hòa bình thế giới. Tuy nhiên trong thời
kỳ này trên thế giới đã xảy ra vài sự kiện làm căng thẳng tình hình thế giới đó
là việc trấn áp cuộc bạo động tại
Hungary
(
1956) và
Khủng hoảng
tên lửa Cuba năm
1962.
Thời kỳ của Khrushchyov ngoài sự nới lỏng tương đối về kỷ luật chính trị, tư
tưởng còn có sự chuyển dịch lớn về kinh tế xã hội: Các nguồn lực thay vì trước
đây chỉ dồn cho các mặt hàng
công nghiệp nặng cho
nhiệm vụ phát triển lực lượng sản xuất (công nghiệp nhóm A) nay nhà nước Liên Xô
tập trung hơn đến các ngành
công nghiệp nhẹ (nhóm B)
và xây dựng, nông nghiệp để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của người dân Xô viết.
Trong nông nghiệp đã cho phép kinh doanh vườn tược nhỏ của các hộ. Ở thời kỳ này
người dân Liên Xô đã cho phép mình có được nhà ở căn hộ tiện nghi và các tiện
nghi sinh hoạt cao cấp, phát triển tâm lý hưởng thụ: có xe ô tô riêng và nhà
nghỉ ngoại ô (tuy chưa nhiều). Đời sống của dân chúng sung túc lên rất nhiều.
Đây là thời kỳ Liên Xô phóng thành công
vệ tinh nhân tạo đầu tiên và đưa người đầu tiên
vào
vũ trụ, biểu tượng
của sự vượt lên của Liên Xô đối với đối thủ tư bản chủ nghĩa Hoa Kỳ. Những thay
đổi to lớn này đã tạo ra sự phấn chấn trong các tầng lớp người Xô viết.
Về cơ bản, chính sách của thời kỳ này vẫn là cố gắng cải cách xã hội trong
khuôn khổ một xã hội tập quyền do Đảng lãnh đạo. Tuy đã đạt được một số thành
quả quan trọng nhưng cố gắng cải cách của Khrushchyov đã gây ra một số bất mãn
và gặp phải các địch thủ trong nội bộ đảng và cuối cùng các lực lượng này đã
thành công trong việc buộc Khrushchyov phải từ chức.
Nhìn chung, đây là giai đoạn Liên Xô đạt mức phát triển cao nhất và có vị thế
chưa từng có trong lịch sử, ngay cả khi so với nước Nga đầu thế kỷ 21:
- Về kinh tế, năm 1972, tổng sản lượng công nghiệp Liên Xô đã tăng 321 lần so
với năm 1922 (năm Liên Xô thành lập), thu nhập quốc dân tăng 112 lần. Năm 1975,
chỉ cần 2 ngày rưỡi, Liên Xô đã sản xuất ra lượng sản phẩm bằng cả năm 1917 (năm
cao nhất của Đế quốc Nga cũ). Sản lượng
công nghiệp Liên Xô chiếm 20% thế giới, tổng sản lượng nền kinh tế (GDP) chỉ đứng sau Mỹ.
- Liên Xô là nước dẫn đầu trên thế giới về trình độ học vấn tại thập niên
1970, với gần 3/4 công dân có trình độ đại học và trung học.
- Một số lĩnh vực như khoa học vũ trụ, điện
hạt nhân, luyện kim,
công nghệ vũ khí... Liên Xô đã có được vị trí dẫn đầu thế giới.
- Trong lĩnh vực thể
thao, Liên Xô đã vươn lên vị thế dẫn đầu thế giới. Kể từ khi bắt đầu tham
gia Thế
vận hội (Olympic) vào năm 1952 cho tới năm 1988, trong tổng số 9
đại hội Olympic mà đoàn thể thao Liên Xô tham gia, họ đứng đầu thế giới tại 6/9
kỳ đại hội, 3 kỳ đại hội còn lại họ cũng chỉ chịu đứng thứ 2.
Đặc biệt, Liên Xô đã trở thành quốc gia đầu tiên mở màn cho kỷ nguyên
thám
hiểm vũ trụ của loài người với hàng loạt thành tựu:
- Ngày 4 tháng 10 năm 1957, con tàu Sputnik 1 được Liên Xô phóng lên vũ trụ từ sân bay vũ
trụ Baikonur ở Kazakhstan, mang theo
vệ tinh nhân tạo đầu tiên
của loài người được đưa vào quỹ đạo Trái Đất.
- Ngày 3 tháng 11 năm 1957, chó
Laika đã trở thành sinh vật sống đầu tiên bay lên quỹ đạo trên tàu Sputnik
II.
- Ngày 19 tháng 8 năm 1960, hai chú chó Belka và Strelka đã trở thành những
sinh vật sống đầu tiên bay vào quỹ đạo và trở về an toàn.
- Ngày 12 tháng 4 năm 1961, phi hành gia Liên Xô Yuri Gagarin trở thành người
đầu tiên bay vào vũ trụ trên chuyến bay kéo dài 1 giờ 48 phút cùng con tàu Vostok 1. Khi hạ cánh ở một nông
trang, Gagarin gặp một bà già, anh nói: "Bác đừng hoảng sợ. Con là một người
Xô Viết!". Câu nói của Gagarin thể hiện niềm tự hào về đất nước Xô viết,
song anh đã trở thành anh hùng - không chỉ ở Liên Xô mà trên toàn thế giới[16].
- Tiếp sau Gagarin là phi hành gia Gherman
Titov với chuyến bay kéo dài 25 giờ, Titov là người đầu tiên ngủ trong không
gian vũ trụ.
- Ngày 16 tháng 6 năm 1963, Valentina Tereshkova là người phụ nữ đầu
tiên bay vào vũ trụ.
- Ngày 18 Tháng 3 năm 1965, phi hành gia Alexei Leonov bước ra khỏi
tàu vũ trụ Voskhod 2, trở thành người đầu tiên đi bộ trong vũ trụ.
- Ngày 3 tháng 2 năm 1966, tàu thám hiểm không người lái Luna-9 đã trở thành
tàu vũ trụ đầu tiên hạ cánh trên mặt trăng.
- Ngày 17 tháng 11 năm 1970, Lunokhod 1 đã trở thành chiếc xe tự hành đầu tiên được
điều khiển từ Trái Đất để đến một hành tinh khác. Nó đã tiến hành phân tích bề
mặt của Mặt Trăng và gửi hơn 20.000 bức ảnh về Trái Đất.
- Ngày 19 tháng 4 năm 1971, Salyut 1 trở thành Trạm không gian đầu tiên trong
lịch sử loài người.
- Năm 1975, Venera 9 trở thành con tàu đầu tiên hạ cánh trên một hành tinh
khác và tập hợp các hình ảnh về bề mặt của sao Kim.
Theo tài liệu của Chính phủ Mỹ thống kê về kinh tế các nước trên thế giới,
năm 1975, tổng sản lượng kinh tế của Liên Xô đã đạt 943,5 tỷ USD (đứng thứ 2 thế
giới và bằng 62% so với Hoa Kỳ), bình quân đầu người đạt 4.135 USD (bằng 52% so
với Hoa Kỳ) tính theo thời giá năm 1977
[17] (tương đương khoảng 12.000 USD theo thời giá
năm 2015). Tuy bình quân thu nhập thấp hơn nhưng mức sống của người dân Liên Xô
đã tương đương với mức sống bình quân tại Hoa Kỳ khi đó (do người dân Liên Xô
được Nhà nước chu cấp toàn bộ chi phí
y tế,
giáo dục và nhà ở, còn người dân Mỹ thì
phải tự trả tiền cho những phúc lợi đó).
Công dân Liên Xô được hưởng mức
phúc lợi xã hội rất
cao so với các nước cùng thời
[18]:
- Liên Xô là nước đầu tiên trên thế giới quy định chế độ làm việc 8 giờ một
ngày. Người lao động Liên Xô được phép nghỉ một tháng mỗi năm và trong thời gian
nghỉ phép đó, họ vẫn được hưởng lương bình thường. Người lao động cũng sẽ không
bị sa thải nếu không có sự chấp thuận của công đoàn.
- Người dân Liên Xô được đưa tới nơi làm việc bằng phương tiện công cộng mà
không phải trả tiền.
- Người dân Liên Xô được miễn học phí tại mọi cơ sở giáo dục, từ mẫu
giáo cho tới đại học.
- Nhà nước đảm bảo các sinh viên tốt nghiệp cao đẳng, đại học đều có việc làm
sau khi nhận bằng.
- Người dân Liên Xô được khám chữa bệnh miễn phí hoàn toàn. Mỗi thành phố đều
có hàng chục cơ sở y tế nơi người dân có thể gặp bác sĩ, được khám bệnh, chụp
X-quang, chỉnh răng. Tất cả dịch vụ đều không mất tiền.
- Các bà mẹ mới sinh sẽ được phát sữa miễn phí cho tới khi con được ba tuổi.
Các sản phụ có quyền nghỉ thai sản trong ba năm. Năm đầu tiên, họ vẫn được nhận
lương bình thường, sau đó nếu không muốn trở lại đi làm thì sẽ được nhận trợ cấp
xã hội.
Sự lớn mạnh của Liên Xô trong giai đoạn này đã tạo sức ép cạnh tranh rất lớn
đối với các nước phương Tây. Do sức hút từ mô hình
phúc lợi xã hội của
Liên Xô, trong nội bộ các nước phương Tây nổ ra nhiều phong trào đòi quyền lợi
cho người lao động, đòi tăng lương và giảm giờ làm, chống sa thải tùy tiện...
Chính phủ các nước phương Tây phải đề ra những biện pháp cải tổ kinh tế, tăng
ngân sách
an
sinh xã hội cho y tế, giáo dục, tăng quyền lợi cho người lao động... để làm
dịu đi những mâu thuẫn nội bộ. Trong thập niên 1970, ở một số nước phương Tây
như
Đức,
Thụy Điển,
Phần Lan... đã hình thành những kiểu
Nhà nước xã hội
với mô hình nền
kinh
tế thị trường xã hội, các nước này vẫn áp dụng kinh tế thị trường nhưng Nhà
nước đề ra các chính sách
an sinh xã hội rộng khắp để làm
giảm đi những khiếm khuyết và bất công của kinh tế thị trường. Có thể nói rằng:
trong cuộc chạy đua với Liên Xô, nhiều nước phương Tây cũng phải tự biến đổi
mình, giảm bớt sự bất công xã hội và người lao động đã có quyền lợi tốt hơn so
với trước. Đó là sự đóng góp về
tiến
bộ xã hội mà Liên Xô đã trực tiếp hay gián tiếp tạo ra cho nhân loại.
Trên bình diện quốc tế, là nước
Xã hội chủ nghĩa lớn
và hùng mạnh nhất, Liên Xô đã trở thành đối trọng cân bằng với khối Tư bản chủ
nghĩa do Mỹ đứng đầu và là nguồn viện trợ chính cho các phong trào giải phóng
dân tộc tại các nước Á-Phi-Mỹ latinh. Các phong trào cách mạng tại châu Á, châu
Phi và Mỹ Latinh liên tiếp thành công, phần nhiều các phong trào này coi Liên Xô
là đồng minh hữu hảo, khiến vị thế quốc tế của Liên Xô tăng lên rất cao, khiến
Mỹ và phương Tây lo ngại rằng "làn sóng Đỏ" dường như sắp bao vây họ
[19].
Năm
1964, Hội nghị bất thường của Trung
ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã bãi nhiệm Bí thư thứ nhất Khrushchov và đưa
Leonid Ilyich
Brezhnev (
Леонид Ильич Брежнев) vào cương vị Bí thư thứ nhất (từ ngày
8 tháng 4 năm
1966 gọi là
Tổng Bí thư). Thời gian từ năm
1965 đến
1985 chủ yếu dưới quyền Brezhnev thường được gọi đơn giản
là thời kỳ "trì trệ" mặc dù thật ra "trì trệ" chỉ thực sự trầm trọng vào 10 năm
cuối của Brezhnev (tức là từ năm 1975 trở về sau) và khái niệm này có
tính
tương đối.
Thời kỳ này là thời kỳ mà những
mâu
thuẫn của xã hội Liên Xô đã chín muồi và phát tác gây những hệ quả xấu cho
nền kinh tế và đời sống tâm lý, chính trị, xã hội của nhân dân. Trong kinh tế,
nền sản xuất duy trì theo
phương
thức kế
hoạch hóa và
bao cấp không tạo được kích thích
quyền lợi của
người
sản xuất nên
kỷ
luật lao động suy giảm,
năng
suất tăng kém. Việc
trả lương theo mức chỉ tiêu kế hoạch và
kế
hoạch hóa theo sản lượng thậm chí kéo lùi việc áp dụng
tiến
bộ khoa học kỹ thuật: sản phẩm chế tạo ra càng tốn nhiều nguyên liệu thì
càng nhanh hoàn thành và vượt
chỉ
tiêu kế hoạch sản lượng và càng có lợi cho người sản xuất, nên
hàng hóa của Liên Xô nhanh
chóng thụt lùi về
chất lượng,
mẫu
mã và
tính
cạnh tranh so với các nước phương Tây và nền kinh tế không được khuyến khích
chuyển sang
phát
triển theo chiều sâu. Kinh tế dựa nhiều vào khai thác ồ ạt các
nguồn
tài nguyên thiên nhiên nên không kích thích tiến bộ kỹ thuật và
ô nhiễm môi
trường gia tăng. Kết quả là hàng hóa trong
thị
trường nội địa bị thừa các sản phẩm khó tiêu thụ và đồng thời lại khan hiếm
hàng hóa dễ tiêu thụ, làm nảy nở
đầu
cơ,
tích
trữ và các loại
kinh tế ngầm bất hợp pháp. Thời kỳ
này Liên Xô tiếp tục lao vào lập kế hoạch và triển khai các dự án lớn rất tốn
kém, được tuyên truyền rầm rộ mang tính phô trương nhưng sau này thực tế cho
thấy
hiệu
quả kinh tế kém, nặng về ý nghĩa
tuyên truyền hình thức... Cũng chính
vì không có động lực kinh tế nên dù là đất đai rộng lớn, phì nhiêu mà
sản
xuất nông nghiệp sa sút không đáp ứng được
nhu
cầu xã hội, càng ngày vấn đề nông nghiệp càng trầm trọng, đến cuối thời
Brezhnev thì đã thật sự nóng bỏng.
Tâm lý dân chúng chán nản trở nên thờ ơ đối với các
chính sách của
Đảng
và chính phủ. Hơn nữa hệ thống cán bộ của Đảng và nhà nước – bộ máy
theo
chỉ định (
Номенклатура) đang trở thành tầng lớp bất bình đẳng mới ít
chịu sự giám sát của nhân dân mà như sau này
Mikhail Gorbachov đã từng gọi là
các vị "cường hào mới" gây bất bình lớn trong xã hội khi tạo ra tham nhũng và
làm suy thoái đạo đức xã hội.
Đây là thời kỳ Liên Xô
chạy
đua vũ trang và
chạy
đua vũ trụ với cường độ cao và coi ưu thế quân sự và vũ trụ so với Hoa Kỳ
như một minh chứng cho
tính
ưu việt của chủ nghĩa xã hội và đã có lúc Phương Tây cho rằng Liên Xô đã phá
vỡ
thế
cân bằng chiến lược. Thời kỳ này đối đầu giữa hai phe khá căng thẳng nhưng
cả hai bên đều có ý thức kiềm chế trong phạm vi an toàn. Trong thời gian này,
Liên Xô còn giúp đỡ các lượng lượng cánh tả trên thế giới chống lại sự can thiệp
của phương Tây.
[20] Cuộc chạy đua vũ trang và vũ trụ tạo thêm
gánh nặng cho ngân sách của Xô viết và sau này nhiều người Nga cho đó cũng là
một trong các nguyên nhân để Liên Xô sụp đổ.
Trong nội bộ Liên Xô các
mâu
thuẫn dân tộc càng ngày càng sâu sắc. Tuy được chính quyền kiềm chế nhưng ở
nhiều nước Cộng hòa (đặc biệt là ở ba nước cộng hòa Baltic – điểm đầu của sự
phân rã Liên Xô sau này), dân địa phương không che giấu thái độ căm ghét người
Nga và xuất hiện rất nhiều căng thẳng giữa các dân tộc giữa các nước Cộng hòa và
trong nội bộ từng nước. Trong nội bộ các nước cộng sản
Đông Âu tình cảm chống Liên Xô cũng được
bộc lộ công khai. Năm
1968 Quân đội Xô viết
đã phải can thiệp để ngăn cản
Tiệp Khắc thoát khỏi tầm ảnh hưởng
của chủ nghĩa cộng sản và điều này càng làm gia tăng chủ nghĩa bài Nga trong dân
chúng các nước Đông Âu, họ coi sự hiện diện của Liên Xô đã kìm hãm sự phát triển
của dân tộc mình. Việc Liên Xô đem quân
tiến vào
Afghanistan (
1979) và sa lầy tại đây lại
càng làm nước này bị mất đi nguồn lực cho phát triển đất nước.
Chính quyền Xô Viết đã có cố gắng cải cách mà điển hình nhất là cố gắng
cải
cách kinh tế của thủ tướng
Aleksei
Nikolayevich Kosygin (
Алексей Николаевич Косыгин) nhưng vì nhiều lý
do của hệ thống mà đã không thu được kết quả. Các mâu thuẫn càng ngày càng tích
tụ và đến giữa những năm 1980 thì xã hội Xô viết đã ở tình trạng cần có một cải
cách cơ bản sâu rộng.
Đến cuối những năm 1980, Liên Xô vẫn duy trì được vị thế
siêu cường với
nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ kém Mỹ) với GDP đạt 2,66 nghìn tỷ USD (năm
1990), bình quân đầu người đạt 9.500 USD
[21]. Tuy nhiên,
nền kinh tế Liên Xô đã bộ lộ nhiều khiếm khuyết so với các nước phương Tây phát
triển nhất gồm Mỹ, Nhật và Đức. Trong nền kinh tế tích tụ rất nhiều mâu thuẫn
ảnh hưởng lớn lên xã hội và đó là nguyên nhân để Tổng bí thư Gorbachov tiến hành
cải cách
cải tổ
(
perestroika), tuy nhiên cải cách chỉ tập trung vào cơ cấu chính trị
trong khi không quan tâm đến cải cách mô hình kinh tế nên cuối cùng đã thất
bại.
-
-
Năm
1985 Tổng bí thư mới được bầu,
Mikhail Sergeyevich Gorbachov và
những người cùng chí hướng như
Aleksandr
Nikolayevich Yakovlev bắt đầu tiến hành chính sách
cải tổ (
perestroika –
Перестройка) và công khai hóa
(glasnost –
Гласность) để giải phóng các tiềm năng chưa được khai thác
của xã hội. Cải tổ tìm cách nới lỏng sự kiểm soát tập trung của Đảng và nhà nước
trong một số lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội, tự do hóa ngôn luận, bầu cử
cạnh tranh và tiến đến loại bỏ sự can thiệp của các cơ cấu đảng vào kinh tế và
một số mặt của đời sống chính trị xã hội. Nhưng những nỗ lực cải cách đã không
thu được kết quả như mong đợi. Khi sự tích cực của dân chúng dâng cao thì khủng
hoảng xuất hiện và trở nên sâu sắc: các tổ chức và trào lưu dân tộc chủ nghĩa
xuất hiện ngày càng nhiều và ngày càng có xu hướng chống chính quyền trung ương,
đòi
ly khai độc lập.
Tốc độ và quy mô của các sự kiện làm những người chủ xướng cải cách không còn
kiểm soát được tình hình và bị cuốn theo các sự kiện. Các thành quả kinh tế thì
còn rất nhỏ bé mà khủng hoảng chính trị ngày càng trầm trọng: các lực lượng đòi
ly khai dần dần nắm các vị trí lãnh đạo của các Nước Cộng hòa và ra các tuyên bố
về chủ quyền của Nước Cộng hòa. Xung đột sắc tộc trở nên phức tạp có đổ máu,
thậm chí có nơi chính quyền các Nước Cộng hòa lãnh đạo cuộc xung đột với các
Nước Cộng hòa lân cận. Mâu thuẫn dân tộc rất lớn trong lòng Liên Xô trước đây
được kiềm chế thì nay đã bộc lộ và tiến triển không thể kiểm soát được. Một khi
tình hình hỗn loạn thì các mối liên hệ kinh tế giữa các vùng miền và các nước
cộng hòa cũng bị gián đoạn làm tình hình kinh tế trở nên sa sút, tình hình xã
hội trở nên hỗn loạn. Các đảng viên cộng sản bị mất hoàn toàn sự kiểm soát và kỷ
luật của Đảng, nhiều người quay sang trở thành các lực lượng quốc gia dân tộc
chủ nghĩa. Ngay cả Xô viết Tối cao Nga, nước cộng hòa trụ cột của Liên Xô, cũng
ra nghị quyết đặt luật pháp nước cộng hòa cao hơn hiến pháp Liên Xô, quyền lực
của nhà nước trung ương Liên Xô dần dần bị tan rã.
Tháng 4/1989, Gorbachev kêu gọi các ủy viên Trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô
tuổi đã cao hãy nghỉ hưu. 115 ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã viết đơn
xin nghỉ hưu vì tin rằng đất nước sẽ phát triển hơn với đội ngũ được trẻ hóa.
Đây chính là sai lầm của những người cộng sản trung thành trong Đảng Cộng sản
Liên Xô. Trong ba năm 1987-1989, khoảng 50% cán bộ cơ quan chiến lược trong quân
đội, hơn 100 cán bộ chính trị cấp chiến dịch - chiến lược và 30% tướng lĩnh bị
cách chức hoặc loại khỏi quân đội với lý do
“tư tưởng bảo thủ, không ủng hộ
cải tổ”, thay thế họ là những phần tử “cấp tiến”
[22] Sức kháng cự của những
Đảng viên trung thành dần suy yếu và cuối cùng đã tê liệt.
Lính Liên Xô đứng gác bức
tường Berlin năm 1989, ảnh được chụp từ phía
Tây Berlin
Phương Tây cũng đã thành công trong việc cài cắm những nhân vật có tư tưởng
cải cách nắm quyền tại các cơ quan
truyền thông,
báo chí,
tuyên truyền lớn của Liên Xô. Từ 1986
đến 1988, một loạt cán bộ chủ chốt của các tờ báo lớn tại Liên Xô được thay thế
bởi những người ủng hộ chủ trương “Tây hóa”, mặt trận báo chí của Đảng Cộng sản
Liên Xô dần bị "đánh chiếm". Từ đó,
báo chí Liên Xô liên tục gây khuynh đảo dư
luận khi ngấm ngầm (rồi sau đó công khai) viết bài chỉ trích lịch sử cách mạng,
trong khi lại tán dương chủ nghĩa tư bản phương Tây. Ảnh hưởng từ báo chí, tư
tưởng Đảng viên và nhân dân Liên Xô trở nên dao động dữ dội, ngày càng có nhiều
người bi quan về đất nước trong khi lại ảo tưởng về phương Tây
[23] Năm 1994, nhà văn
Yuri
Boldarev khi nhìn lại tình cảnh của thời kỳ này đã nói:
“Trong sáu năm,
báo chí Liên Xô đã thực
hiện được mục tiêu mà quân đội Đức Quốc xã với hàng
triệu quân tinh nhuệ nhất cũng không thể thực hiện được khi xâm lược nước ta, đó
là đánh đổ Nhà nước Liên Xô. Quân đội Đức có thiết bị kỹ thuật hàng đầu nhưng
thiếu một thứ, đó là hàng triệu ấn phẩm mang vi khuẩn hủy diệt tư tưởng của nhân
dân Liên Xô”[24].
Trước tình hình đất nước rối ren, ngày
19 tháng 8 năm
1991 một số nhà lãnh đạo theo đường lối cứng rắn (Chủ tịch
Quốc hội Lukyanov, Chủ nhiệm KGB Kryuchkov, Phó Tổng thống Yanaev, Thủ tướng
Pavlov) tiến hành đảo chính với mục tiêu bảo toàn sự thống nhất của Liên bang Xô
viết, lập
Uỷ
ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp, tước bỏ quyền lực của Tổng thống Liên
Xô Gorbachov và đưa quân đội vào thủ đô. Nhưng lực lượng đảo chính không đạt
được sự ủng hộ của dân chúng và quân đội các địa phương, các chỉ huy đảo chính
thì do dự không quyết đoán. Đảo chính càng làm tăng thêm mâu thuẫn giữa các nước
cộng hòa và các thế lực chính trị lãnh đạo các khu vực. Chỉ qua 2 ngày (
21 tháng 8) Bộ trưởng Quốc
phòng, Nguyên soái Yazov ra lệnh rút quân khỏi Moskva, đảo chính thất bại.
Trong việc đánh bại đảo chính có vai trò nổi bật của Tổng thống Liên bang Nga
Boris Yeltsin, người đã hiệu triệu
dân chúng bảo vệ Nhà Trắng, trụ sở chính phủ Nga. Thực ra chính
tình
báo Mỹ đã thông đồng với Boris Yeltsin và và báo trước cho ông ta biết về
những kế hoạch quan trọng của phe đối lập, giúp ông ta giành thắng lợi trong
cuộc đối đầu với
Uỷ ban nhà nước về tình trạng khẩn cấp do CIA đã đặt máy
nghe trộm ngay dưới chân
điện Kremli. Đích thân tổng thống Mỹ
George Bush
(cha) và thủ tướng
Anh là
John Major đã gọi điện báo trước
về âm mưu đảo chính và thúc giục Yeltsin phải có hành động nhằm tranh thủ sự
đồng tình và nắm chắc quân đội. Cho đến tận sau này, nhiều người Nga vẫn đánh
giá Boris Yeltsin rất tiêu cực vì sự thông đồng của ông ta với tình báo nước
ngoài.
Sau đảo chính, tình hình biến chuyển nhanh chóng. Ngày
8 tháng 12 tại
Minsk, thủ đô của
Belarus, các nhà lãnh đạo ba nước cộng hòa
Nga,
Belarus và
Ukraina ra tuyên bố ký thỏa thuận
thành lập
Cộng
đồng các quốc gia độc lập (
SNG –
Содружество Независимых Государств), chấm dứt sự tồn tại của Liên bang
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết. Ngày
21 tháng 12 tại
Alma Alta,
thủ đô của
Kazakhstan, tất cả
các nước cộng hòa trừ ba nước vùng biển Baltic ký tuyên ngôn tôn trọng các tôn
chỉ và mục đích của thỏa thuận thành lập Cộng đồng các quốc gia độc lập. Ngày
25 tháng 12 năm 1991, Liên
Xô chính thức chấm dứt tồn tại. Khi Liên bang Xô-viết tan rã, tương ứng với Công
ước Viên năm 1983, phân định tỷ lệ của từng quốc gia trên cơ sở phân tích đóng
góp và phần của các nước Cộng hòa được phân chia như sau: Nga có 61,34 %,
Ukraina - 16,37%, Belarus - 4,13%, Kazakhstan - 3,86%, Uzbekistan - 3,27%,
Gruzia - 1,62%, tiếp theo ít dần đến Estonia với 0,62%.
Theo nguyên phó trưởng
ban Tuyên giáo Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam, ông Vũ Ngọc Hoàng, thì một nguyên nhân khiến
Liên Xô sụp đổ là vì sự tha hóa của một bộ phận giới lãnh đạo
"đã phản bội
nhân dân, bán rẻ Tổ quốc vì ngai vàng của cá nhân",
"Nhiều người đã giải
thích rằng do địch phá bằng “diễn biến hòa bình”... Đấy là cách giải thích miễn
cưỡng, tự trấn an mình. Địch thì lúc nào mà chẳng phá ta? Phá là việc của địch,
còn ngã đổ là chuyện của ta... thời kỳ trước đó, khi 14 nước đế quốc tập trung
bao vây nhà nước Xô viết còn non trẻ, rồi nội chiến, rồi chủ nghĩa phát-xít đã
tập trung cao độ lực lượng với 500 sư đoàn thiện chiến trong đại chiến thế giới
lần thứ 2 để tiêu diệt Liên Xô, nhưng không tiêu diệt được. Ngược lại, Liên Xô
đã lớn mạnh thành một cường quốc hàng đầu thế giới... nhưng về sau địch chẳng
tốn một viên đạn mà Liên Xô vẫn đổ ào không cứu vãn được, cứ như một cơn đột quỵ
dữ dội và bất ngờ..." "Bản chất của vấn đề Liên Xô đổ là tự đổ, do tha hóa
quyền lực mà đổ, do không thể tự đứng được nữa mà đổ, do thối nát mà đổ, chứ
chẳng phải ai xô ngã được."[25]
Từ khi dựng nước, Liên Xô đã trải qua rất nhiều khó khăn thử thách và đã vượt
qua tất cả: Năm 1917, 35 vạn đảng viên Bolshevik đã lãnh đạo giai cấp công nhân
Nga lật đổ ách thống trị của
Sa
hoàng, cùng nhân dân đánh bại sự can thiệp vũ trang của 14 nước phương Tây
để bảo vệ thành công cách mạng. Năm 1941, 5.540.000 đảng viên đã cùng nhân dân
chiến thắng quân đội phát xít Đức trong cuộc
chiến
tranh Vệ quốc vĩ đại, rồi sau đó lãnh đạo công cuộc xây dựng Liên Xô trở
thành
siêu
cường thế giới. Vậy nhưng, năm 1991, Liên Xô lại sụp đổ, không phải do quân
đội kẻ thù tấn công, cũng không phải do kinh tế hay khoa học kỹ thuật yếu kém,
mà chính là do sự phản bội của các quan chức cấp cao bên trong nội bộ Đảng và
Nhà nước Liên Xô
[23].
Sau này, Tổng thống Nga
Vladimir Putin cho biết ông phản đối sự tan rã
của Liên Xô. Ông cho rằng lẽ ra Liên bang Xô Viết đã không bị sụp đổ, nếu như
Đảng Cộng sản Liên Xô tiến hành cải cách đúng hướng và không “thả cửa” cho những
tư tưởng phá hoại đất nước
[26] của báo chí cũng như các phần tử cơ hội
trong nội bộ Đảng.
Hậu quả của sự tan rã Liên Xô[sửa | sửa
mã nguồn]
Sau khi Liên Xô tan rã, theo “liệu pháp sốc” do người Mỹ bày cho các chính
khách Nga thân phương Tây mới nắm quyền
[cần
dẫn nguồn], ở nước Nga tiến hành cưỡng chế
tư
hữu hóa trong lĩnh vực kinh tế. Kết quả rất nhanh là đưa đến một nền kinh tế
tiêu điều và suy thoái nghiêm trọng. Đất nước nghèo đi nhanh chóng, xã hội rơi
vào hỗn loạn, phạm tội xảy ra tràn lan. Theo tài liệu của Bộ Nội vụ Nga, lúc đó
toàn quốc xuất hiện hơn 8.000 băng nhóm tội phạm cỡ lớn có tổ chức. Trong Thông
điệp tình hình đất nước năm 1996,
Boris Yeltsin thừa nhận:
“Nước Nga hiện nay đã
vượt Italia, trở thành vương quốc băng đảng mafia lớn nhất thế giới”. Từ năm
1991 đến cuối thế kỷ 20, tổng giá trị sản xuất trong nước (
GDP) của Nga giảm xuống 52% so năm 1990 (trong
khi đó, vào thời kỳ chiến tranh từ năm 1941 đến năm 1945 chỉ giảm 22%). Sản xuất
công nghiệp
giảm 64,5%, sản xuất nông nghiệp giảm 60,4%. Vật giá tăng cao hơn 5.000 lần.
Hệ
thống y tế miễn phí và rộng khắp của Liên Xô bị hủy bỏ, hàng loạt bệnh viện
công bị
tư
hữu hóa. Viện phí theo đó tăng chóng mặt, nhiều người dân không có đủ tiền
đi chữa bệnh (điều chưa từng xảy ra dưới thời Liên Xô). Từ năm 1992 trở đi, dân
số nước Nga luôn có xu thế giảm. Tuổi thọ bình quân của người Nga năm 1990 là
69,2 tuổi, đến năm 2001 sụt còn 65,3 tuổi. Thậm chí, tuổi thọ bình quân của nam
giới ở một số vùng giảm xuống chỉ còn 50 tuổi.
Dưới thể chế đa đảng, hệ thống Nhà nước yếu ớt và việc thiếu vắng một lý
tưởng đoàn kết xã hội, tinh thần dân tộc chủ nghĩa ở các nước cộng hòa cũ thuộc
Liên Xô đã không ngừng dâng cao, khuynh hướng
ly khai, dân tộc hẹp hòi ngày càng trở nên trầm trọng.
Thập niên 1990, hàng loạt các cuộc chiến tranh ly khai nổ ra tại các nước thành
viên thuộc Liên Xô cũ, khiến hàng trăm ngàn người thiệt mạng.
Đảng Cộng sản Liên Xô biến mất, Liên Xô tan rã đã mang lại hậu quả tai hại
cho nhân dân Liên Xô. Rất nhiều học giả Nga cũng rút ra kết luận rằng, Liên Xô
tan rã làm cho phát triển kinh tế - xã hội tại Nga thụt lùi mấy chục năm
[27]
Sự sụp đổ của Liên Xô sau này được tổng thống Nga
Putin gọi là
"thảm họa địa
chính trị tồi tệ nhất thế kỷ 20. Đối với nước Nga, nó đã trở thành một bi kịch
thực sự. Hàng triệu công dân và những người yêu nước của chúng ta bỗng nhiên
thấy họ đang sống bên ngoài lãnh thổ Nga.".
[28] Cựu Thủ tướng Nga
Evgeny
Primakov cho rằng:
"Cái giá của sự sụp đổ Liên Xô là rất khủng khiếp, nền
kinh tế Nga tổn thất còn nhiều hơn Chiến
tranh thế giới thứ hai. Sẽ là điên rồ nếu nói rằng đất nước này được hưởng
lợi từ những năm 1990."[29]
Cựu Tổng thống Ukraine
Leonid Kravchuk, một trong ba nhân vật hàng đầu
tham gia ký kết hiệp định giải thể Liên Xô sau này đã nói:
“Nếu như năm 1991,
tôi biết được đất nước sẽ phát triển đến như cục diện như ngày hôm nay thì khi
đó tôi đã nhất quyết chặt đứt cánh tay mình chứ không ký vào Hiệp định
đó[30].
Theo cuộc khảo sát của Sputnik.Mneniya tại 9 nước trong số 11 quốc gia thuộc
Liên Xô cũ vào năm 2016, phần lớn cư dân trên 35 tuổi (những người đã trải qua
cuộc sống dưới thời Liên Xô) cho rằng cuộc sống ở Liên Xô tốt hơn so với thời kỳ
sau khi đất nước tan rã. Ở Nga, 64% số người đã trải qua thời kỳ Liên Xô đánh
giá rằng chất lượng cuộc sống thời đó cao hơn. Ở Ukraina, đồng ý với tuyên bố
này có 60% số người trả lời, còn tỷ lệ cao nhất là ở
Armenia (71%) và
Azerbaijan (69%)
[31]
Khảo sát của hai cơ quan điều tra dư luận ở Nga cho thấy: đa số người dân
Liên Xô cũng không muốn đất nước Liên Xô tan rã. Cuối năm 2005, kết quả một cuộc
điều tra dư luận của hai cơ quan độc lập nổi tiếng ở Nga cho thấy: 66% người Nga
ngày nay cảm thấy nuối tiếc cho sự sụp đổ của Liên Xô; 76% số người cho rằng
Liên Xô có rất nhiều điểm đáng để tự hào. 72% và 80% số người được hỏi lần lượt
cho rằng Gorbachev và Yeltsin đã đẩy đất nước vào con đường sai lầm; chỉ có 1%
số người được hỏi mong muốn sống dưới thời Yeltsin.
[30], 60% người Nga
tin rằng: sự sụp đổ của Liên Xô gây nhiều tác hại nhiều hơn là lợi ích. Trong
cơn đại hồng thủy đó, nhiều nước cộng hòa hậu Xô viết đã rơi vào bạo lực sắc tộc
sau khi có được độc lập, khiến cả trăm ngàn người thiệt mạng.
Theo sử gia
Geoffrey
Roberts, trên bình diện thế giới, sự sụp đổ của Liên Xô khiến phương Tây
không còn một đối trọng đủ mạnh mẽ, thế giới ngày nay vẫn còn xa mới có thể gọi
là an toàn.
[32]
Liên Xô là nước cộng sản đầu tiên, mô hình chính trị của nhà nước Liên Xô là
mẫu hình chung cho các quốc gia xã hội chủ nghĩa khác. Đặc điểm bao trùm của thể
chế chính trị của nhà nước Liên Xô là chế độ một đảng lãnh đạo.
Khác với đa số các nhà nước hiện đại trên thế giới theo nguyên tắc
tam quyền phân lập,
hệ thống chính trị Xô viết theo nguyên tắc
tập
trung dân chủ. Đảng Cộng sản lãnh đạo tối cao và toàn diện mọi mặt:
chính trị, xã hội, kinh tế, văn hóa (điều 6 Hiến pháp Liên Xô). "Cơ quan quyền
lực cao nhất" của Liên Xô là
Xô viết Tối
cao Liên Xô (
Верховный Совет), có cả 3 quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp và trực tiếp đảm nhiệm chức năng
lập pháp. Cơ quan thường trực
của Xô viết Tối cao là
Đoàn
chủ tịch Xô Viết tối cao Liên Xô.
Chủ
tịch Đoàn Chủ tịch Xô viết Tối cao là nguyên thủ quốc gia trên danh nghĩa,
nhưng
Tổng
Bí thư Ủy ban Trung ương Đảng Cộng sản mới là nhân vật số một. (Từ năm 1988
"cơ quan quyền lực cao nhất" là
Đại
hội đại biểu nhân dân, cơ quan thường trực của nó là Xô viết Tối cao). Ở các
cấp địa phương "cơ quan quyền lực cao nhất" là Xô viết địa phương do dân
bầu.
Xô viết Tối cao bầu ra
Chủ
tịch Hội đồng Bộ trưởng (Thủ tướng) và phê chuẩn thành phần
Hội
đồng Bộ trưởng (Chính phủ) là cơ quan chấp hành của nó, đảm nhiệm chức năng
hành pháp ở trung ương. Tương tự, Xô viết địa phương bầu ra Uỷ ban hành
chính (
Испольнительный коммитет, viết tắt là
Исполком - Ispolkom)
để đảm nhiệm chức năng hành pháp ở địa phương.
Xô viết Tối cao cũng bầu Chánh án Tòa án Tối cao đứng đầu cơ quan
tư
pháp trung ương là
Toà
án Tối cao. Xô viết địa phương bầu chánh án toà án các cấp địa phương.
Hiến pháp Liên Xô cũng quy định về các quyền cơ bản của công dân như quyền tự
do ngôn luận, quyền tự do hội họp, tự do tín ngưỡng... như các nhà nước hiện đại
khác trên thế giới.
Nhưng về thực chất đặc điểm nổi bật của hệ thống chính trị của Liên Xô là sự
bao trùm của Đảng Cộng sản lên hệ thống chính trị.
Đảng
Cộng sản Liên Xô (
Коммунистическая партия Советского Союза - КПСС) là
cơ quan lãnh đạo theo hiến pháp quy định, không do dân bầu. Để bảo đảm sự lãnh
đạo của Đảng, Liên Xô áp dụng hệ thống nhân sự theo "Nomenclatura" nghĩa là hệ
thống cơ cấu cán bộ theo sự chỉ định của Đảng: ở mỗi cấp chính quyền hành chính,
Xô viết hoặc tư pháp thì luôn song hành với đảng ủy (Parkom -
Партийный
коммитет viết tắt là Парком). Các đảng viên lãnh đạo đảng ủy (hay Parkom)
luôn nắm các vị trí chi phối của các Xô viết theo một tỷ lệ đảm bảo sự lãnh đạo:
ứng cử viên vào các Xô viết đều phải được sự đề cử của các Parkom và các liên
danh ứng cử của đảng viên và người ngoài đảng bao giờ cũng có một tỷ lệ áp đảo
của đảng viên. Đối với cơ quan hành pháp cũng vậy các chức vụ lãnh đạo của các
Ispolkom là từ các Parkom, thường thì các phó bí thư đảng ủy là chủ tịch các uỷ
ban hành chính (Ispolkom). Các Xô viết và các Uỷ ban hành chính các cấp phải
chấp hành các chỉ thị của cấp trên theo ngành dọc của mình và các chỉ thị, nghị
quyết của Uỷ ban đảng đồng cấp của địa phương mình và thường các chỉ đạo này là
nhất quán với nhau. Ở cấp các nước Cộng hòa và cấp Liên bang cũng vậy: Chủ tịch
Hội đồng Bộ trưởng, Chủ tịch Xô viết tối cao, Chánh án Toà án tối cao thường là
các Uỷ viên
Bộ
chính trị của Đảng, đôi khi Tổng bí thư kiêm luôn Chủ tịch Đoàn Chủ tịch Xô
viết tối cao (như Brezhnev) hoặc Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (như Khrushchov).
Các Bộ trưởng thường là Uỷ viên Bộ chính trị hoặc Trung ương Đảng. Khi họp Chính
phủ hoặc Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao thì thực tế là họp Bộ Chính trị mở rộng.
Nhân sự các nhiệm kỳ của các cơ quan chính trị, nhà nước trùng với nhân sự của
đại hội Đảng, khi một cá nhân thôi chức tại Parkom thì họ cũng thôi nhiệm vụ tại
Xô viết hoặc Ispolkom... Tại Liên Xô chỉ đạo của Đảng là trực tiếp: Đảng ủy có
thể đưa ra các chỉ đạo thẳng đến các Xô viết và các Uỷ ban hành chính chứ không
cần thiết phải biến các nghị quyết đảng đó thành các văn bản của các cơ quan này
nữa.
Hệ thống chính trị như vậy của nhà nước Liên Xô làm xã hội Xô viết mang đặc
tính tập trung quyền lực rất lớn của Đảng. Có lúc nào đó đặc tính này có thể
mang lại tác dụng tốt nhưng đồng thời nó là nguyên nhân rất dễ dẫn đến các hiện
tượng lạm dụng quyền lực của các cấp đảng vì các cấp ủy đảng thực tế gần như
không bị nhân dân kiểm soát vì Đảng vừa làm ra pháp luật và vừa thi hành pháp
luật, mà hệ quả là hiện tượng vi phạm các quyền tự do của công dân được hiến
pháp quy định, cũng như các tiêu cực khác ví dụ tình trạng không quy được trách
nhiệm cá nhân... Trong giai đoạn cuối của Liên Xô hệ thống này đã mất tính uyển
chuyển năng động gây ra thời kỳ được gọi là "thời kỳ trì trệ" của Brezhnev.
Để hạn chế các khiếm khuyết của hệ thống chính trị một đảng lãnh đạo tập
quyền tập trung như vậy, năm
1985 Tổng bí
thư
Gorbachov đã tiến hành cải cách
chính trị. Cuộc cải cách chính trị của Gorbachov nhằm giảm bớt sự lãnh đạo của
Đảng đối với các cơ cấu nhà nước và xã hội đã gây ra khủng hoảng chính trị và
gây ra sự tan rã của Liên Xô.
Mô hình hệ thống kinh tế Liên Xô cơ bản là kinh tế nhà nước, là nền kinh tế
phi cạnh tranh, không định hướng theo
thị trường, chịu sự lãnh đạo
của Đảng và tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ cả ở cấp vi mô và vĩ mô. Đây cũng
là mô hình kinh tế chung của các Quốc gia xã hội chủ nghĩa.
- Nền kinh tế nhà nước tập trung: Tuy trong nền kinh tế Xô viết còn có thành
phần kinh tế tập thể trong nông nghiệp là các nông
trang tập thể (Kolkhoz – Коллективное хозяйство, viết tắt là
Колхоз), nhưng tỷ trọng áp đảo trong kinh tế là thành phần nhà nước với
các nhà máy xí nghiệp trong công nghiệp và nông
trường quốc doanh Sovkhoz (Советское хозяйство, viết tắt là
Совхоз) trong nông nghiệp, đây là nền kinh tế nhà nước, tập trung điển
hình nhất.
- Đảng lãnh đạo toàn bộ nền kinh tế: Các định hướng dài hạn của nền kinh tế
đất nước và địa phương được thông qua tại Đại hội Đảng các cấp và các cấp ủy
Đảng chỉ đạo trực tiếp việc thi hành chính sách kinh tế và giải quyết các khúc
mắc trong quá trình kinh tế.
- Kế hoạch hóa cao độ: Đại hội Đảng xác định các nhiệm vụ ưu tiên của nền kinh
tế và phác thảo ra các chỉ tiêu kinh tế quan trọng của một thời kỳ dài thường là
5 năm và định hướng dài 10 năm, đó là cơ sở để kế hoạch hóa. Sau đó Gosplan Liên
Xô (Cơ quan kế hoạch nhà nước – Госплан) sẽ lập ra kế hoạch cho các kế
hoạch năm năm, đôi khi có kế
hoạch bảy năm với các chỉ số kinh tế cụ thể cho thời hạn 5 năm và từng năm
cụ thể. Các kế hoạch của Gosplan sẽ được chuyển giao cho các Bộ
kinh tế. Bộ sẽ lập kế hoạch chi tiết cho ngành mình và giao các chỉ tiêu
kinh tế cho các doanh nghiệp dưới sự chủ quản của bộ. Các doanh nghiệp trên cơ
sở kế hoạch được giao sẽ tính toán các nguồn lực và có thể đệ trình kế hoạch sản
xuất lên các cơ quan chủ quản để đề nghị hiệu chỉnh. Một khi kế hoạch được thông
qua đó sẽ là pháp lệnh nhà nước. Để đảm bảo tài chính cho các kế hoạch sản xuất
các doanh nghiệp sẽ nhận được tiền theo kế hoạch từ Gosbank (Ngân hàng nhà
nước – Госбанк) và nhận nhiên, nguyên vật liệu và các sản phẩm trung gian
theo kế hoạch từ Gossnab (Cung ứng nhà nước – Госснабжение). Việc lập kế
hoạch được thực hiện rất chi tiết: thậm chí Gosplan quy định đến cả giá bán buôn
và bán lẻ của các loại sản phẩm, như vậy sẽ rất phức tạp, Gosplan của Liên Xô
thực sự là một cơ quan ngang bộ với chức năng đặc biệt của chính phủ Liên Xô
thường do một Uỷ viên Bộ chính trị - Phó chủ tịch hội đồng bộ trưởng phụ trách
kinh tế chỉ đạo với đội ngũ đông đảo các chuyên gia kinh tế, các nhà quản lý kế
hoạch, nhưng việc lập kế hoạch chi tiết như vậy vẫn không thể nào sát được với
thực tế cuộc sống kinh tế của đất nước, không thể tính được các yếu tố thị
trường. Vì những lý do trên nền kinh tế của Liên Xô là nền kinh tế phi cạnh
tranh và không định hướng đến thị trường.
Những đặc điểm tập trung hóa, kế hoạch hóa cao độ dưới sự lãnh đạo của Đảng
như vậy có tác dụng dễ dàng tập trung được nguồn lực quốc gia cho các mục tiêu
trọng điểm, những ưu tiên của đất nước ví dụ điển hình như quá trình
Công
nghiệp hóa những năm 1930 đã thành công bất kể các căng thẳng của nền kinh
tế, cũng như các dự án
chạy
đua vũ trang và các dự án lớn khác của Liên Xô sau này. Nhưng đồng thời nó
thường không gắn liền với hiệu quả kinh tế nên thường gây lãng phí rất lớn: Kinh
tế phát triển nhanh nhờ khai thác rất lớn các nguồn tài nguyên thiên nhiên và
năng suất lao động tăng không tương xứng. Các chỉ tiêu phát triển được duy trì
cao nhưng
mức sống
của nhân dân ngày càng kém so với các đối thủ tư bản ở nước ngoài.
Kinh tế có kế hoạch và tách xa thị trường nên kinh tế Liên Xô tránh được
lạm phát, tránh được các
khủng hoảng
và các rủi ro của thị trường như trong các nền
kinh
tế tư bản chủ nghĩa, giá cả có khi được duy trì cố định trong vài chục năm.
Nhưng nền kinh tế như vậy không linh hoạt: một doanh nghiệp không hoàn thành kế
hoạch sẽ ảnh hưởng lây lan, do đó kế hoạch được coi như pháp lệnh nhà nước và có
tính bắt buộc rất cao. Vì kế hoạch hóa mang nhiều tính mệnh lệnh quan liêu và
không sát thị trường khiến hàng hóa Liên Xô có chất lượng và tính cạnh tranh
ngày càng thấp so với nước ngoài. Giá cả cố định trong một thời gian khá dài
cộng với thu nhập tăng đều theo kế hoạch điều này là có lợi cho tầng lớp dân cư
thích được sống bao cấp, sức mua của người dân tăng cao, nhưng ngược lại sức mua
tăng mà chất lượng hàng hóa không theo kịp yêu cầu của xã hội nên gây nên nạn
khan hiếm hàng hóa có giá trị tạo
"văn hóa xếp hàng" ở mọi nơi, gây bất
bình trong dân chúng nhất là dân thành thị.
Lợi ích doanh nghiệp và người lao động phụ thuộc vào việc hoàn thành và vượt
chỉ tiêu kế hoạch được giao mà không có đối tượng cạnh tranh (ở Liên Xô cạnh
tranh chỉ dưới hình thức
thi
đua Xã hội chủ nghĩa). Từ những năm 1960, khi thị hiếu của người dân nâng
cao, việc vượt và vượt hơn nữa chỉ tiêu tạo nên một số loại hàng hóa dư thừa cực
kỳ lớn trong xã hội, nhưng những loại hàng hóa khác thì lại bị khan hiếm. Kết
quả là một số loại hàng hóa thì thừa nhiều, một số khác thì lại thiếu gây mất
cân đối trong nền kinh tế.
Việc không có cạnh tranh và sản xuất theo kế hoạch làm cho người lao động mất
động lực quyền lợi kinh tế dẫn đến sự sa sút kỷ luật và lòng hăng hái, yêu lao
động và nảy sinh bàng quan, vô trách nhiệm: Vào những năm Stalin và trong chiến
tranh, người lao động làm việc dưới ảnh hưởng của tinh thần yêu nước và kỷ luật
sắt, chính sách công nghiệp hóa có hiệu quả cao nên không có sự sa sút, nhưng về
sau vì kém động lực kinh tế nên chiều hướng làm biếng là phổ biến trong tâm lý
người lao động. Đồng thời cách trả lương lao động mang tính bình quân chủ nghĩa
không khuyến khích tính năng động và làm bất mãn những người muốn làm giàu. Để
khuyến khích người lao động, từ những năm cuối thập kỷ 1970 Liên Xô cho áp dụng
khoán sản phẩm trong các xí nghiệp công nghiệp ở phạm vi tổ đội lao động
(
Бригадный подряд) nhưng kết quả chỉ thành công hạn chế và không gây được
động lực lớn.
Tất cả những điểm yếu của nền kinh tế Xô viết tác động vào nông nghiệp Xô
viết làm nền nông nghiệp Liên Xô trở nên già cỗi, nông nghiệp và nông thôn không
được tái đầu tư, khoảng cách thành thị – nông thôn ngày càng lớn, thanh niên
nông thôn dồn hết vào thành phố, nông thôn suy thoái, sản xuất nông nghiệp sa
sút nghiêm trọng. Đến giữa những năm 1980 nông nghiệp và nông thôn đã là một vấn
đề rất trầm trọng của xã hội Xô viết, một số sản phẩm nông nghiệp đã phải nhập
khẩu từ nước ngoài. Đảng và chính phủ Liên Xô đã có những cố gắng đầu tư cho
nông nghiệp trong những năm 1970 – 1980 bằng các dự án thành lập các tổ hợp
Nông – công nghiệp nhưng vì chưa đánh giá hết những nguyên nhân gốc rễ và cách
tiếp cận cũng mang tính quan liêu mệnh lệnh nên chương trình nhiều tham vọng này
cũng không thành công.
Đến giữa những năm 1980, nền kinh tế Xô viết đã bộc lộ những điểm yếu rất
lớn. Tuy vẫn duy trì được vị thế
nền
kinh tế lớn thứ hai thế giới (chỉ kém Mỹ) với GDP đạt 2,66 nghìn tỷ USD (năm
1990)
[21], nhưng nền kinh tế Liên Xô đã
bị lạc hậu hơn so với các nước kinh tế thị trường mạnh nhất như Mỹ, Nhật, Đức.
Trong nền kinh tế tích tụ rất nhiều mâu thuẫn ảnh hưởng lớn lên xã hội và đó là
nguyên nhân để Tổng bí thư Gorbachov tiến hành cải cách
cải tổ (
perestroika), tuy nhiên cải cách chỉ
tập trung vào cơ cấu chính trị trong khi không quan tâm đến cải cách mô hình
kinh tế nên đã thất bại và Liên Xô sụp đổ.
Phân chia lãnh thổ của Liên Bang Xô Viết[sửa | sửa
mã nguồn]
Giai đoạn
1954-
1991, Liên Xô bao gồm 15 nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô
viết:
- Armenia
- Azerbaidjan
- Belorussia
- Estonia
- Gruzia
- Kazakhstan
- Kirghizia
- Latvia
- Litva
- Moldavia
- Nga
- Tadjikistan
- Turkmenia
- Ukraina
- Uzbekistan
Và phần lớn các nước này lại được phân chia thành các tỉnh (ngoại trừ 5 nước
Latvia, Litva, Estonia, Moldavia và Armenia).
Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Xô viết Liên bang Nga (RSFSR) được phân chia thành
16 nước
cộng
hòa tự trị (avtonomnaya respublika-
автономная республика), 6
khu (krai-
край) và 49
tỉnh (oblast-
область). Dưới
cấp khu có thể có
tỉnh tự trị, dưới cấp tỉnh và khu còn có thể có các
vùng dân tộc (thiểu số) (nationalny okrug-
национальный округ), đến
năm 1977 được đổi tên thành
vùng tự trị (avtonomny okrug-
автономный
округ). Có tất cả 5 tỉnh tự trị, 10 vùng tự trị.
Trong một số nước cộng hòa (
Nga,
Gruzia,
Azerbaidjan,
Uzbekistan,
Tadjikistan) còn có các nước
cộng
hòa tự trị và
tỉnh tự trị.
Tất cả các đơn vị hành chính-lãnh thổ nói trên được phân chia thành các huyện
(rayon-
район) và thành phố trực thuộc tỉnh, vùng và nước cộng hòa.
Những nhà lãnh đạo quan trọng[sửa | sửa
mã nguồn]
- Lev
Davidovich Trotsky (Лев Давыдович Троцкий) – Nhà lãnh đạo cách mạng nổi
tiếng, người sáng lập Hồng quân công nông, người lãnh đạo thắng lợi của Hồng
quân Bolshevik trong nội chiến (1918 – 1922).
- Feliks
Edmundovich Dzerzhinsky (Феликс Эдмундович Дзержинский) – Lãnh đạo cơ quan
Ủy ban đặc biệt trấn áp phản cách mạng thời cách mạng và nội chiến.
- Maksim
Maksimovich Litvinov (Максим Максимович Литвинов) – Nhà ngoại giao nổi
tiếng, tác giả chính sách đối ngoại "An ninh tập thể".
- Vyacheslav Mikhailovich Molotov
(Вячеслав Михайлович Молотов) – Chủ tịch hội đồng bộ trưởng kiêm Bộ trưởng ngoại
giao thời Stalin, người ký hiệp ước Ribbentrop – Molotov.
- Lavrenty Pavlovich Beria (Лаврентий
Павлович Берия) – Lãnh đạo Bộ dân ủy nội vụ NKVD và phụ trách an ninh, công an,
mật vụ, trong thời Stalin.
- Andrey
Andreyevich Gromyko (Андрей Андреевич Громыко) – Bộ trưởng ngoại giao Liên
Xô những năm 1960 – 1980.
- Dmitri
Fyodorovich Ustinov (Дмитрий Фёдорович Устинов) – Nguyên soái, Bộ trưởng
Quốc phòng, nổi tiếng là nhà tổ chức các tổ hợp công nghiệp quốc phòng Xô
viết.
- Georgi Konstantinovich Zhukov
(Георгий Константинович Жуков) – Nguyên soái, chỉ huy nhiều trận đánh lớn và
công phá Berlin, tiếp nhận sự đầu hàng của Đức Quốc xã trong Chiến tranh thế
giới thứ hai.
Các nhà khoa học và kỹ thuật[sửa | sửa
mã nguồn]
- Boris Leonidovich Pasternak (Борис
Леонидович Пастернак) – Nhà văn nổi tiếng tác giả tiểu thuyết "Bác sĩ
Zhivago", giải thưởng
Nobel.
- Mikhail Aleksandrovich
Sholokhov (Михаил Александрович Шолохов) – Nhà văn nổi tiếng tác giả "Sông Đông êm
đềm" giải thưởng Nobel.
- Aleksandr Isayevich
Solzhenitsyn (Александр Исаевич Солженицын) – Nhà văn nổi tiếng lên án chế
độ khủng bố Stalin, tác giả "GULAG
quần đảo địa ngục", giải thưởng Nobel.
- Galina
Sergeyevna Ulanova (Галина Сергеевна Уланова) – Nữ nghệ sĩ ballet nổi tiếng.
- Maxim Gorky (1868-1936),
nhà văn Xô Viết. Các tác phẩm nổi tiếng: người mẹ, thời
thơ ấu, trường
đại học của tôi...
- Aleksey Nikolayevich Tolstoy (1883-1945),
nhà văn Xô Viết. Các tác phẩm nổi tiếng: Con
đường đau khổ, thời
thơ ấu của Nhi-ki-ta, chiếc
chìa khoá vàng,...
- Nikolai Alekseyevich Ostrovsky
(Николай Алексеевич Островский) (1904- 1936), nhà văn
Xô Viết, tác giả cuốn Thép
đã tôi thế đấy (Как закалялась сталь!)